Biên giới Việt Nam- Campuchia

Dây là biên giới Việt Nam-Campuchia ở Đồng Tháp

Nguyễn văn Tiến

Đại học Luật Tp.HCM

Hình đi hội thảo ở Nha trang

Tôi đang ngồi giữa một bên là một bên là biển và một bên là trường đại học Nha trang

đồng tháp quê hương miền Tây

mời bạn cùng uống cà phê với chúng tôi

Hình kỷ niệm 15 năm thành lập ĐH Luật TPHCM

Mời bạn tham khảo một thoáng về gian hàng trưng bày của khoa Luật Dân sự

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

ĐỀ CƯƠNG XU HƯỚNG CHI TIẾT

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1. Bản chất của hôn nhân và gia đình
KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH
Gia đình
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, [1] quan hệ nuôi dưỡng và hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội.






Khái niệm Gia đình
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người. [2]
Phân loại
Có nhiều cơ sở để phân loại gia đình thành các loại khác nhau.
Xét về qui mô, gia đình có thể phân loại thành:
• Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và con.
• Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống): là gia đình bao gồm ông bà, cha mẹ và con còn được gọi là tam đại đồng đường. [2]
• Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn thế hệ còn gọi là tứ đại đồng đường.
Dưới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũng có thể phân chia gia đình thành hai loại:
• Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi là gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó còn có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ. Dạng cổ điển của gia đình lớn là gia đình trưởng lớn, có đặc tính tổ chức chặt chẽ. Nó liên kết ít nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình. Ngày nay, gia đình lớn thường gồm cặp vợ chồng, con cái của họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia đình này, quyền hành không ở trong tay của người lớn tuổi nhất.
• Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người thể hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng với các con. Do vậy, cũng có thể có gia đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ. Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia đình chứa trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con); ngược lại, gia đình nhỏ không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó, nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc chỉ của người bố hoặc người mẹ với các con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của tương lai và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
gia đình
Gia đình Việt Nam
Theo phong tục tập quán người Việt, các thành viên trong gia đình thường về tụ hội đông đủ vào dịp Tết Nguyên Đán hằng năm. Ngoài ra các dịp đám cưới, đám tang, đám giỗ cũng là dịp để các thành viên trong gia đình tập hợp lại.Gia đình Việt Nam có đặc điểm là nhiều thế hệ sống chung trong cùng một mái nhà. Mỗi gia đình thường có ba thế hệ sống chung với nhau: ông bà - cha mẹ - con cái. Đối với gia đình Việt Nam thì người trụ cột là người chồng (hoặc người cha).
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký ban hành Quyết định 72/2001/QĐ-TTg chọn ngày 28 tháng 6 hàng năm là ngày gia đình Việt Nam.
Thuật ngữ quan hệ trong gia đình
Ngoài hai từ chính thống cha và mẹ, các vùng khác nhau có những từ khác nhau như bố, ba, thầy để chỉ cha và má, u, mạ để chỉ mẹ.
Một số từ để chỉ mối quan hệ nếu có trong gia đình như: ông nội là cha của cha, bà nội là mẹ của cha, ông ngoại là cha của mẹ, bà ngoại là mẹ của mẹ.
• Miền Nam: bác (trai) là anh của cha, bác gái là vợ của anh của cha, chú là em trai của cha, thím là vợ của chú, cô là chị hoặc em gái của cha. Cậu là anh hoặc em trai của mẹ, mợ là vợ của cậu. Dì là chị hoặc em gái của mẹ. Dượng là chồng của cô hoặc dì. Thông thường để gọi một người trong gia đình người ta dùng từ chỉ mối quan hệ kết hợp với thứ của người đó (nếu có quan hệ huyết thống) hoặc thứ của chồng hoặc vợ người đó (nếu không có quan hệ huyết thống) chẳng hạn như chú tư, vợ của chú tư được gọi là thím tư. Con trong gia đình được gọi từ thứ hai (con đầu) trở đi, không có con cả.
• Miền Bắc: bác là anh hoặc chị của cha hoặc mẹ, vợ hoặc chồng của bác cũng được gọi là bác, chú là em trai của cha ngoài ra chú còn dùng để gọi chồng của cô hoặc chồng của dì, cô là em gái của cha, ngoài ra cô còn dùng để gọi vợ của chú, cậu là em trai của mẹ, mợ là vợ của cậu, dì là em gái của mẹ. Thông thường để gọi một người trong gia đình người ta dùng từ chỉ mối quan hệ kết hợp với tên của người đó. Con trong gia đình được gọi theo thứ tự cả, hai, ba, tư.
Anh em bà con (họ hàng): con của chú bác gọi là anh chị em chú bác (anh chị em con chú con bác), con của dì gọi là anh chị em bạn dì (anh chị em con dì), con của cô cậu gọi là anh chị em cô cậu (anh chị em con cô con cậu).
Dâu rể: gọi theo vợ hoặc chồng là người có quan hệ huyết thống với mình kết hợp với từ dâu hoặc rể ví dụ như con dâu, con rể, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu. Hai người chồng của hai chị em gái miền Nam gọi là anh em cột chèo, miền Bắc gọi là anh em đồng hao hoặc đứng nắng. Hai người vợ của hai anh em trai gọi là chị em bạn dâu.











- Gia đình là “Hai hoặc hơn hai người, bao gồm chủ hộ, có quan hệ với nhau bởi huyết thống, hôn nhân hoặc quan hệ con nuôi (nghĩa dưỡng) và những người sống cùng với nhau như một hộ gia đình” (Cục Điều tra dân số Mỹ, www.midtermpapers.com/18311.htm)
Gia đình theo định nghĩa này gồm 5 tiêu chí: nhóm người, có quan hệ với nhau bởi huyết thống, hôn nhân hoặc quan hệ con nuôi, có đặc trưng giới tính, có ngân sách chung.









- “Gia đình là một nhóm thuộc loại đặc biệt vì nó biểu hiện một cấu trúc vai trò (cha, mẹ, con…), với nó thì sự tách biệt về giới tính và thế hệ là tiêu chí của cơ cấu gia đình (= một hay đa thế hệ) và qua nó sẽ chuyển hóa một quan hệ hợp tác và đoàn kết rất đặc biệt mà ở tất cả các xã hội đều tổ chức theo nghi lễ sự thành lập của nó” Từ điển xã hội học, G.Endrweit và G.Trommsoorff (NXB Thế giới, 2002)







-
- “Gia đình là một nhóm người lien hệ với nhau bởi tình yêu và tình cảm yêu mến”, www.unmarriedamerica.org.familydiversity/definition of family is up for debate.htm)
- “Gia đình là một nhóm người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân huyết thống hoặc quan hệ con nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống, có ngân sách chung”.

PHÂN LOẠI GIA ĐÌNH
- Gia đình Việt Nam truyền thống:
- Là sản phẩm của xã hội nông nghiệp trồng lúa nước mà tiêu biểu là ở đồng bằng Bắc bộ. Là hình thái gia đình gắn liền với xã hội nông thôn-nông nghiệp.
+ Là đơn vị sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp khép kín
+ Niềm tin vào sức mạnh và sự nâng đỡ của cộng đồng đối với cá nhân còn xuất phát từ yếu tố tín ngưỡng
+ Con người gắn bó với cộng đồng và vì cộng đồng
 Cấu trúc gia đình truyền thống mang tính nhất thể hóa
 Gia đình đa chức năng
 Sự coi trọng mối quan hệ gia đình theo chiều dọc
- Gia đình hiện đại:
- + Là sản phẩm của xã hội công nghiệp.
+ Quy mô gia đình ngày càng thu hẹp
+ Có tính lien tục và tính đa dạng
+ Tự do và bình đẳng
 Gia đình hiện đại mang tính đa khuôn mẫu
 Tính lien tục và sự biến đổi của cấu trúc gia đình: Gia đình nửa truyền thống; Gia đình hạt nhân hai thế hệ (chồng đi làm vợ ở nhà, vợ chồng cùng đi làm; cha mẹ ở riêng với con cái)
 Sự thay đổi mối quan hệ gia đình ( Tự do cá nhân)
CÁC KIỂU GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA
- Gia đình mở rộng cục bộ (local extended family): Gồm hai hoặc nhiều gia đình hạt nhân sống chung nhưng độc lập với nhau
- Gia đình mở rộng phân tán (dispersed extended family): Gồm nhiều gia đình hạt nhân sự quen biết nhưng không chính thức như gia đình mở rộng. Họ sống tách xa nhau
- Gia đình hạt nhân (Nuclear family)
- Gia đình thỏa thuận mới
- Gia đình cấu tạo lại
- Gia đình đơn thân
- Gia đình đối xứng
- Gia đình cả hai vợ chồng đi làm
- Gia đình sống như vợ chồng
- Gia đình chỉ có mẹ
- Gia đình đồng giới
Nguồn: Rapoport R. N. etal, 1982, Families in Britain, London: Rouledge and Kegan Paul
CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
Chức năng cơ bản
1. Tái tạo ra một thế hệ mới bao gồm cả việc sinh đẻ và giáo dục đào tạo:
o Chức năng sinh sản - tái sản xuất ra con người về mặt sinh và hoặc về mặt xã hội;
o Chức năng giáo dục của gia đình.
2. Nuôi dưỡng, chăm sóc các thành viên trong gia đình:
o Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình;
o Chức năng thoả mãn những nhu cầu tâm - sinh lý tình cảm.
Hai chức năng cơ bản này chi phối toàn bộ các chức năng khác của gia đình như:
• Chức năng kinh tế;
• Chức năng giao tiếp tinh thần;
• Chức năng tổ chức thời gian rỗi;
• Chức năng thu nhận các phương tiện;
• Chức năng giáo dục bảo trợ;
• Chức năng đại diện;
• Chức năng tình dục;
• Chức năng nghỉ ngơi, giải trí;
• V.v... [2]
CẤU TRÚC GIA ĐÌNH
Là số lượng, thành phần và mối quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình. Không có cấu trúc thuần nhất về gia đình






THIẾT CHẾ GIA ĐÌNH
Là tập hợp các khuôn mẫu hành vi, các giá trị, chuẩn mực bền vững được quy định và được tiêu chuẩn hóa dung để điều tiết các hành vi cá nhân phù hợp với vai trò được mong đợi nhằm thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của tổ chức gia đình

Thiết chế gia đình được nghiên cứu dưới các góc độ sau:
- Nghiên cứu gia đình với tư cách là đơn vị xã hội tương đối độc lập trong xã hội
- Mối quan hệ giữa thiết chế gia đình với các thiết chế cơ bản khác của xã hội
-




2. Lịch sử pháp luật về hôn nhân và gia đình
2.1. Pháp luật về hôn nhân và gia đình trong thời kỳ cổ đại
2.2. Pháp luật về hôn nhân và gia đình trong thời kỳ phong kiến
2.3. Hôn nhân và gia đình theo pháp luật của một số nước trên thế giới
2.4. Pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam
2.4.1. Giai đoạn trước năm 1945
2.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2000
2.4.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay

Chương 2: BIẾN ĐỔI HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
1. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của gia đình
1.1. Công nghiệp hóa và biến đổi gia đình
1.2. Toàn cầu hóa và biến đổi gia đình
2. Biến đổi gia đình ở Việt Nam
2.1. Sự biến đổi chức năng gia đình
- Chức năng kinh tế
- Chức năng sinh đẻ
- Chức năng xã hội hóa
- Chức năng tâm lý-tình cảm
3. Sự biến đổi cấu trúc gia đình
3.1. Sự biến đổi quan hệ hôn nhân
- Tuổi kết hôn
- Lựa chọn hôn nhân và khoảng cách địa lý
- Tiêu chuẩn lựa chọn hôn nhân
- Quyền quyết định hôn nhân
- Nghi thức kết hôn
- Nơi cư trú của vợ chồng
- Chung sống không đăng ký kết hôn
3.2. Sự biến đổi quan hệ vợ chồng
- Quan niệm người chủ gia đình
- Phân công lao động giữa vợ và chồng
- Kiểm soát các nguồn lực trong gia đình
- Bạo lực gia đình
3.3. Sự biến đổi quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
- Giữa cha mẹ và con
- Giữa các thành viên khác

Chương 3: GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VIỆC BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH
3.1. Quan điểm về gia đình
3.2. Những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình Việt Nam
3.3. Các giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế

7. Học liệu
7.1. Sách
- Ph.Ăngghen: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước, NXB Sự thật, Hà nội 1961
- Montesquieu: Tinh thần pháp luật, NXB Đà nẵng 2010
- Khuất Thu Hồng, Gia đình truyền thống-một số tư liệu xã hội học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996
- Nguyễn Văn Nam: Lịch sử Việt Nam, NXB Thời đại, 2010
- Phan Đại Doãn: Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998
- Vũ Tuấn Huy: Xu hướng gia đình ngày nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2004
- Vũ Ngọc Khánh: Văn hóa gia đình Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà nội 2007
- Đặng Phương Kiệt: Gia đình Việt Nam- Các giá trị truyền thống và những vấn đề tâm-bệnh lý xã hội, NXB Lao động, Hà nội 2006
- Phan Ngọc: Vấn đề gia đình Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1998
- Lê Thi, Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2002
- Lê Ngọc Văn, Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội 1998
- Trần Thị Kim Xuyến: Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện đại, NXB Thống kê, Hà nội 2001
- Lương Ninh: Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Khoa học xã hội, 2010
- Jean Jacques Rousseau: Bàn về khế ước xã hội, NXB Đà Nẵng, 2010
- Nguyễn Thị Thọ: Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 2011;
- Quốc triều hình luật, NXB Chính trị quốc gia, 1995;
- Trần Quang Trung: Nhận diện quyền dân sự trong bộ luật Hồng Đức, NXB Lao động, 2010;
- Nguyễn Văn Nam: Lịch sử Việt Nam, NXB Thời đại, 2010
- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Các văn kiện quốc tế về quyền con người, NXB TPHCM, 1997;
- Mai Hồng Quỳ: Hành trình của quyền con người, NXB Tri thức, 2010
- Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 Việt Nam cộng hòa
Các bài viết
- Minh Anh: Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, 2005, số 10
- Lê Thị Tuyết Ba: Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, 1999, số 1
- Đỗ Thái Đồng: Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam bộ Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, 1990, số 3
- Hồ Ngọc Đại: Tam giác gia đình, Tạp chí Xã hội học, 1990, số 3
- Lê Thế Huệ: Về dân số Việt Nam thời cổ trung đại, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 1991, số 6
- Trần Hàn Giang: Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới, Tạp chí Gia đình và giới, 2003, số 6
- Lê Ngọc Văn: Một số quan điểm của lý thuyết nữ quyền trong nghiên cứu gia đình, Tạp chí Gia đình và giới, 2005, số 1
- Mai Huy Bích: Giới và thuyết nữ quyền phương Tây, Tạp chí Gia đình và giới, 2002, số 5
- Mai Huy Bích: Nâng cao tính khoa học của nghiên cứu gia đình, Tạp chí Gia đình và giới, 1999, số 3
- Lê Ngọc Văn: Một vài nét về thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí Gia đình và giới, 2004, số 3
- http://ifgs.org.vn
- Các tài liệu khác
8.Phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá
a. Đánh giá thường xuyên:
- Kiểm diện
- Minh chứng tham gia seminar, làm việc nhóm, bài tập nhỏ.
b. Đánh giá định kỳ
Tiểu luận 20%
Bài thi cuối kỳ 80%











Chương 2: BIẾN ĐỔI HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
1. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của gia đình
1.1. Công nghiệp hóa và biến đổi gia đình
- Khái niệm công nghiệp hóa
Theo quan niệm phổ biến, CNN có 3 nội dung:
- Là quá trình chuyển đổi kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp sang cơ cấu kinh tế công nghiệp- thị trường.
- Thay thế công cụ thủ công bằng công cụ máy móc.
- Là sự chuyển biến xã hội một cách toàn diện
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, v.v..
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay đổi về mặt triết học là nguyên nhân của công nghiệp hóa hay ngược lại thì vẫn còn tranh cãi.
Ảnh hưởng của công nghiệp hóa:
Về mặt Xã hội
Công nghiệp hóa nảy sinh những vấn đề của riêng nó.
Những áp lực của đời sống hiện đại gồm ô nhiễm tiếng ồn, không khí, nước, dinh dưỡng nghèo nàn, máy móc nguy hiểm, công việc cộng đồng, sự cô đơn, vô gia cư và lạm dụng vật chất. Những vấn đề sức khỏe ở các quốc gia công nghiệp gây ra bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa.





Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa sẽ phát triển. Sự hình thành và phát triển của các đô thị lại dẫn tới sự bùng nổ dân số, và sự phát triển của xã hội đại chúng. Từ đó, chế độ chính trị và pháp luật cũng có những thay đổi. Những tập quán và truyền thống của xã hội nông nghiệp bị mai một. Công nghiệp hóa làm tăng sự mất công bằng trong phân phối thu nhập giữa các địa phương, các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội.
Công nghiệp hóa dẫn tới ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp gia tăng.
Trước kia, quá trình công nghiệp hóa dẫn tới gia tăng nhu cầu về nguyên liệu và thị trường là nguyên nhân của việc các nước phương Tây đi xâm chiếm thuộc địa. Và mâu thuẫn trong xâm chiếm thuộc địa dẫn tới hàng loạt cuộc chiến tranh trong đó ác liệt nhất là Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai.
Lý thuyết công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
Định nghĩa
Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X, công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính chuyển sang dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao.



Quan điểm về công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
• Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với hợp tác, mở rộng, hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở cửa hội nhập hướng mạnh về sản xuất cho xuất khẩu, đồng thời thay thế sản phẩm nhập khẩu cho có hiệu quả.
• Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, được mọi thành phần kinh tế tham gia, trong đó nền kinh tế nhà nước là chủ đạo.
• Lấy việc phát huy yếu tố con người làm chủ đạo, tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống người dân, tăng cường dân chủ, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.
• Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa - hiện đại hóa, kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu có tính chất quyết định.
• Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội tổng thể là tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư phát triển và công nghệ, đầu tư có chiều sâu để khai thác tối đa nguồn lực hiện có, trong phát triển mới ưu tiên phát triển quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình qui mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
• Kết hợp chặt chẽ toàn diện, phát triển kinh tế quốc phòng.
Mục tiêu tổng quát
Công nghiệp hóa là mục tiêu lâu dài, xây dựng Việt Nam trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản suất, đời sống vật chất, tinh thần cao, an ninh quốc phòng vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ra sức phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp, với tỷ trọng ngành công nghiệp vượt trội hơn các ngành khác.
Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp với tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp khoảng 40-41%, dịch vụ chiếm 42-43%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động công nghiệp và dịch vụ là 50%, nông nghiệp là 50%.
Những tồn tại và thách thức
Quá trình công nghiệp hóa (về thực chất) đòi hỏi đầu tư khổng lồ của nhà nước và xã hội để tạo lập cơ sở hạ tầng, trung tầng và thượng tầng để phục vụ công nghiệp hóa. Trong khi các địa phương lại có xu hướng hiểu một cách đơn giản và máy móc và cố gắng thành lập nhiều Khu Công Nghiệp để mong rằng mục tiêu công nghiệp hóa sớm đạt thành.
Trong khi các Khu Công Nghiệp chỉ là một phần nhỏ của cơ sở hạ tầng, thì các cơ sở trung tầng (giáo dục đào tạo kỹ thuật, thương mại, tòa án .v.v.) và cơ sở thượng tầng (luật pháp, phát triển ngoại thương, an toàn thực phẩm, môi trường, chính sách đất đai, tài chính công, ngân hàng, ngoại hối .v.v.) rất thiếu thốn và không đồng bộ.
Tuy có sự thống nhất về quan điểm phát triển giữa trung ương và địa phương, nhưng địa phương đã thi hành các kế hoạch phát triển theo phong cách riêng đặc thù của địa phương, hoặc áp dụng sao chép máy móc các mô hình của các địa phương khác (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc .v.v.) đã khiến quá trình phát triển bị phân tán tài nguyên và nhân lực.
Hiệu quả đầu tư nhà nước còn rất kém (thể hiện nơi chỉ số ICOR của Việt Nam khá cao so với quy mô nền kinh tế) do nhiều nguyên nhân: quản lý kém, không minh bạch và tệ nạn tham nhũng còn đang hoành hành. Nếu hiệu quả đầu tư quá kém (nghĩa là nhà nước đổ vốn rất nhiều nhưng thành quả thu được không tương xứng) thì quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam sẽ rất tốn kém.
Theo đó, chi phí để hoạt động, vận hành và duy trì một nền kinh tế công nghiêp hóa của Việt Nam cũng sẽ rất cao nếu các tồn tại và thách thức trên không được giải quyết. Chi phí cao sẽ khiến sản phẩm của Việt Nam phải bán giá thành cao hơn các nước khác và vì thế sẽ làm giảm thế cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Do không thể giảm chi phí hệ thống cao (vì nhiều lý do), để giảm giá thành thì không còn cách nào khác là phải tiếp tục duy trì chi phí nhân công ở mức thấp và dịch vụ chất lượng kém. Điều này góp phần trầm trọng hóa vấn đề "khoảng cách thu nhập" giữa công nhân và giới quản lý, giới chủ và tạo tiền đề bất ổn xã hội.
1.2. Toàn cầu hóa và biến đổi gia đình








- Khái niệm toàn cầu hóa
“Toàn cầu hóa là quy mô và tầm quan trọng ngày càng tăng của những trao đổi về sản phẩm, dịch vụ, vốn và những tư tưởng xuyên quốc gia”,
Loweell Dittmer, Giáo sư khoa học chính trị California




“Toàn cầu hóa là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau do có sự năng động của việc buôn bán hang hóa và dịch vụ cũng như có sự lưu thông tư bản và công nghệ”, (Ủy ban châu Âu),
Loweell Dittmer: Globalization on the Asian Financial Crisis, Asian Perspective, 1999, Vol 23 No 4, p.45

- Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v... trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
Lịch sử của toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch sử khác nhau. Thông thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính trị học, toàn cầu hoá chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước dựa trên những cơ sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao đổi hàng hoá với nhau một cách trơn tru nhất.
Thuật ngữ "tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế về thị trường tự do tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông hàng hoá. Điều này dẫn tới sự chuyên môn hoá không ngừng của các nước trong lĩnh vực xuất khẩu, cũng như tạo ra áp lực chấm dứt hàng rào thuế quan bảo hộ và các rào cản khác. Thời kỳ bắt đầu dùng vàng làm tiêu chuẩn của hệ thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế kỷ thứ 19 thường được chính thức gọi là "thời kỳ đầu của toàn cầu hoá". Cùng với thời kỳ bành trướng của đế quốc Anh (Pax Britannica) và việc trao đổi hàng hoá bằng các loại tiền tệ có sử dụng tiền xu, thời kỳ này là cùng với giai đoạn công nghiệp hoá. Cơ sở lý thuyết là công trình của David Ricardo nói về lợi thế so sánh và luật cân bằng chung của Jean-Baptiste Say, cho rằng, về cơ bản các nước sẽ trao đổi thương mại một cách hiệu quả, và bất kỳ những bất ổn tạm thời về cung hay cầu cũng sẽ tự động được điều chỉnh. Việc thiết lập bản vị vàng bắt đầu ở các nước công nghiệp hoá chính khoảng giữa năm 1850 và năm 1880, mặc dù chính xác khi nào các nước này áp dụng bản vị vàng vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh cãi.
"Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930.
Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Ý nghĩa của toàn cầu hóa
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20.
"Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là:
• Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu,
• Toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa các thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế.
• Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau.
• Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển.
Khái niệm này cũng chia sẻ một số tính chất với khái niệm quốc tế hoá và có thể dùng thay cho nhau được, mặc dù có một số người thích dùng "toàn cầu hoá" để nhấn mạnh sự mờ nhạt của ý niệm nhà nước hay biên giới quốc gia.
Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hội.... Rõ ràng cần phân biệt toàn cầu hoá kinh tế với khái niệm rộng hơn là toàn cầu hoá nói chung.
Khái niệm chủ nghĩa toàn cầu, nếu chỉ được sử dụng trong phạm vi kinh tế, có thể được xem là trái ngược hẳn với khái niệm chủ nghĩa kinh tế quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ. Nó có liên quan đến khái niệm chủ nghĩa tư bản không can thiệp và chủ nghĩa tân tự do.
Các dấu hiệu của toàn cầu hoá
Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh sự tồn tại của một số xu hướng.
• Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
• Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
• Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại
• Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo.
• Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậu, khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo.
• Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá.
• Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC
• Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế
• Gia tăng di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép
• Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu
• Phát triển các hệ thống tài chính quốc tế
• Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia
• Gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý các giao dịch quốc tế
• Gia tăng số lượng các chuẩn áp dụng toàn cầu; v.d. luật bản quyền
Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm:
• Thúc đẩy thương mại tự do
o Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu dịch tự do với thuế quan thấp hoặc không có
o Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản
o Giảm, bỏ hẳn hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương
• Thắt chặt vấn đề sở hữu trí tuệ
o Hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia (nói chung là thắt chặt hơn)
o Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước (v.d. bằng sáng chế do Việt Nam cấp có thể được Mỹ thừa nhận)
Có khá nhiều thảo luận mang tính học thuật nghiêm túc quanh việc xem toàn cầu hoá là một hiện tượng có thật hay chỉ là một sự đồn đại. Mặc dù thuật ngữ này đã trở nên phổ biến, nhiều học giả lý luận rằng các tính chất của hiện tượng này đã từng được thấy ở một thời điểm trước đó trong lịch sử. Tuy vậy, nhiều người cho rằng những dấu hiệu làm người ta tin là đang có tiến trình toàn cầu hoá, bao gồm việc gia tăng thương mại quốc tế và vai trò ngày càng lớn của các tập đoàn gia quốc gia, thực sự không rõ ràng như ta tưởng. Do vậy, nhiều học giả thích dùng thuật ngữ "quốc tế hoá" hơn là "toàn cầu hoá". Để cho đơn giản, vai trò của nhà nước và tầm quan trọng của các quốc gia lớn hơn nhiều trong khái niệm quốc tế hoá, trong khi toàn cầu hoá lại loại trừ vai trò các nhà nước quốc gia theo bản chất thực sự của nó. Chính vì vậy, các học giả này xem biên giới quốc gia, trong một nghĩa rộng, còn lâu mới mất đi, do vậy tiến trình toàn cầu hoá căn bản này vẫn chưa thể xảy ra, và có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra vì dựa trên lịch sử thế giới người ta thấy rằng quốc tế hoá sẽ không bao giờ biến thành toàn cầu hoá — chẳng hạn như trường hợp Liên hiệp châu Âu và NAFTA hiện tại.
Tác động của toàn cầu hoá
[Khía cạnh kinh tế
Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực (xem ảnh hưởng về khía cạnh chính trị phía dưới), quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế.
Toàn cầu hóa cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều và dễ dàng hơn, kéo theo biến tướng là nạn "săn đầu người". Hai hiện tượng này đã góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất nước.
Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ
Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc, mà kết cục thế nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra:
• Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá;
• Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy thương mại và văn hoá mạnh. Trên thực tế, thông tin tạo ra chính kiến và vì thế một vài tập đoàn truyền thông lớn, chủ yếu là phương Tây có thể tạo ra (và làm giả) thông tin đưa đến dân chúng. Sự độc quyền trong lĩnh vực văn hoá và thông tin này được xem như một sự " Mỹ hoá " thế giới.
Mỗi người nhìn toàn cầu hoá theo một kiểu khác nhau. Có hai xu hướng chính:
• nỗ lực che dấu những khác biệt về bản sắc, thay vì để lộ ra.
• cảm giác toàn cầu hoá sẽ mang lại sự tự do cá nhân, ngay cả khi điều đó đi cùng với một sự đồng nhất hoá toàn cầu một cách tương đối.
Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hướng rõ ràng hướng tới đồng nhất hoá việc dùng "tiếng Anh toàn cầu" ("globish", viết tắt của global English), một thứ tiếng Anh nghèo nàn do những người không phải là người Anglo-Saxon dùng khi họ ở nước ngoài. (Lưu ý là "tiếng Anh toàn cầu" không phải là tiếng Anh cơ bản như trong phiên bản Wikipedia bằng tiếng Anh đơn giản).
Sự phổ cập của tiếng Anh toàn cầu gắn với việc mất đi quyền lực chính trị ở cấp độ thế giới: thay vì một chính sách văn hoá quốc tế có sự phối hợp để có thể dẫn đến việc chọn một thứ tiếng có quy luật rõ ràng và ngữ âm học rõ ràng, phần lớn các nước đều chọn dạy tiếng Anh cho giới trẻ dựa trên lựa chọn của các nước khác! Do sự bắt chước một cách máy móc và sự trơ ì chính trị, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ của thế giới và được gọi là "tiếng Anh toàn cầu" ("globish") vì các yếu tố cơ bản của tiếng Anh Oxford đã bị biến dạng về phát âm, ngữ pháp, từ vựng, v.v.). Đối với một số những người nói tiếng Anh, "tiếng Anh toàn cầu" là kết quả của chủ nghĩa đế quốc về ngôn ngữ của nước họ. Vấn đề là liệu có thể dễ dàng cho rằng các nỗ lực hướng đến việc dạy tiếng Anh thay vì giảng dạy các thứ tiếng khác sẽ làm giảm chất lượng của các ngôn ngữ khác hay không (như tiếng Pháp lai Anh - franglais). Wikipedia










-
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH
- Gia đình ngày càng tiếp tục phân hóa sâu sắc
- Gia đình được xây dựng dựa trên tiền đề mới – Tự do cá nhân
- Áp lực công việc, lợi nhuận, cạnh tranh toàn cầu


- Vai trò kép của gia đình: Áp lực công việc và tình cảm, sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình


THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH VIỆT NAM (CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2005-2010)
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh những biến đổi về cơ cấu và chức năng của gia đình luôn gắn liền với sự thay đổi về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một thời kỳ mới trong quá trình phát triển xã hội của dân tộc ta. Quyền bình đẳng nam, nữ và chế độ hôn nhân một vợ một chồng được Nhà nước công nhận và qui định tại Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 và trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, thể hiện sự tiến bộ xã hội, góp phần thúc đẩy việc hình thành và từng bước hoàn thiện quyền dân chủ trong quan hệ gia đình Việt Nam.
Kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, sự tăng trưởng nhanh về kinh tế nhưng không chú ý phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội sẽ dẫn đến những khủng hoảng và đổ vỡ các quan hệ gia đình. Sự thay đổi về điều kiện làm việc và sinh hoạt của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng là nguyên nhân làm ảnh hưởng tới cấu trúc và sự ổn định của các gia đình ở nhiều nơi. Để khắc phục tình trạng trên, nhiều nước đã hình thành các cơ quan quản lý nhà nước phụ trách vấn đề gia đình với các chính sách và sự đầu tư thỏa đáng giúp cho gia đình có đủ năng lực thực hiện các chức năng của mình và thích nghi được với những biến đổi của kinh tế - xã hội. Một trong những nguyên tắc quan trọng được các nước thừa nhận làm căn cứ cho Liên hợp quốc công bố năm 1994 là Năm Quốc tế về Gia đình: "Gia đình là đơn vị cơ sở của xã hội, và vì vậy xứng đáng được quan tâm đặc biệt". Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Công uớc quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ đều coi gia đình như một nhân tố quan trọng để thực hiện và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em.
Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển và thực sự đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở phát triển, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc và xã hội ngày càng ổn định, phát triển. Hiện nay, gia đình Việt Nam đang được xây dựng với những giá trị nhân văn tiến bộ, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em. Vai trò và quyền của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội ngày càng được nâng cao. Quyền trẻ em đã được pháp luật thừa nhận, đang được gia đình và xã hội thực hiện khá hiệu quả. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định nguyên tắc hôn nhân bình đẳng và tiến bộ. Quá trình đổi mới càng củng cố niềm tin và trách nhiệm của xã hội và mỗi cá nhân đối với gia đình. Việc thành lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình năm 2002 đã đánh dấu một bước chuyển mới trong nhận thức về gia đình và công tác gia đình. Từ năm 2001, ngày 28/6 trở thành Ngày Gia đình Việt Nam càng khẳng định vai trò của gia đình đối với xã hội và xã hội đối với gia đình.






Tuy nhiên, công tác gia đình hiện nay còn nhiều yếu kém và đang đối mặt với nhiều thách thức. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình còn nhiều thiếu sót và bất cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại.
Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, bạo lực trong gia đình, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia đình và xã hội.
Những biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài đang ngày càng gia tăng. Các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp.



Nhiều tệ nạn xã hội, nạn dịch HIV/AIDS đã và đang thâm nhập vào các gia đình đặc biệt là đối với thanh, thiếu niên. Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới.
Bạo hành trong gia đình, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em lang thang kiếm sống, trẻ em làm trái pháp luật có chiều hướng phát triển.
Nhiều gia đình vẫn đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hàng trăm ngàn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam đang là nỗi đau của nhiều gia đình và xã hội. Hàng ngàn gia đình có thân nhân bị chết, bị tàn tật do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Những mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh sau ba mươi năm vẫn chưa thể bù đắp được. Công tác xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả chưa vững chắc, đặc biệt là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc chuyển hướng ngành nghề cho những hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá và phát triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.



Nguyên nhân của tình hình nói trên có phần
do nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của gia đình.
Công tác quản lý nhà nước về gia đình chưa theo kịp với sự phát triển của đất nước.
Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa được xử lý kịp thời. Các cấp chính quyền chưa quan tâm đúng mức việc chỉ đạo công tác gia đình; chưa gắn việc ổn định và phát triển gia đình với phát triển các cụm dân cư, thôn ấp.
Công tác nghiên cứu về gia đình chưa được quan tâm.
Công tác giáo dục đời sống gia đình, cụ thể là việc giáo dục trước và sau khi kết hôn, việc cung cấp các kiến thức làm cha mẹ, các kỹ năng ứng xử của các thành viên trong gia đình chưa được coi trọng.
Nhiều gia đình do tập trung làm kinh tế đã xem nhẹ việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các thành viên, đặc biệt là trẻ em.
Xu thế hạt nhân hoá gia đình trong quá trình công nghiệp hoá nếu không được định hướng sẽ tiếp tục gây sức ép về nhà ở cũng như đặt việc chăm sóc trẻ em và người cao tuổi vào một thách thức mới.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá và hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện, đồng thời cũng đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng sẽ tiếp tục tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp và lối sống lành mạnh. Sự phân hoá giàu nghèo sẽ tiếp tục tác động vào số đông các gia đình, nếu không được hỗ trợ, không được chuẩn bị đầy đủ, nhiều gia đình sẽ không đủ năng lực đối phó với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội và không làm tròn các chức năng vốn có của mình.
Nhận thức rõ tính cấp bách của việc giải quyết những bức xúc nêu trên, để phát huy những yếu tố tích cực và chủ động tránh những tác động tiêu cực đối với gia đình trong tương lai, cần có các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, cộng đồng và từng cá nhân, giúp mọi gia đình Việt Nam có đủ năng lực xây dựng cuộc sống no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc.
Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010 nhằm củng cố, ổn định và phát triển gia đình, góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: “Nâng cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”.
“Điều đáng lo ngại trong nhiều gia đình hiện nay ở thành thị”
Trường Giang
Trong sự phát triển mạnh mẽ phong trào hiện đại hóa cuộc sống muôn mặt, toàn đất nước, nhất là khu vực thành phố, có nhiều biến đổi tích cực. Đó là một sự thật lớn ai cũng thấy rõ. Xong cũng lại có một sự thật khác xuất hiện làm không ít người lo ngại; đó là một số nhân tố truyền thống vốn có trong dân ta đang bị phá vỡ hoặc bào mòn nghiêm trọng.
1. Một số kỷ cương nền nếp gia phong đang bị mất dần
Ai đi dâu cả nhà chẳng hay, chuyện thưa báo của con cái cháu chắt đối với cha mẹ, ông bà không còn giữ vững như trước, mỗi khi đi về. Ý kiến của người già, người lớn trong gia đình không còn được coi trọng. Phong cách sống tự do quá trớn đang thao túng nhiều người, hình thành một nếp sống vô tổ chức, không ai bảo được ai.
Có một quan niệm đang chi phối lớp trẻ ở những gia đình giàu có là muốn thoát khỏi sự ràng buộc của bố mẹ và coi đó là cách tốt nhất để tự giải phóng mình, từ bỏ những ảnh hưởng của những tư tưởng lạc hậu, lỗi thời. Trong lúc đó, thì chúng vẫn tận hưởng những đồng tiền ưu ái của bố mẹ để sống thoải mái với người yêu, bạn bè. Ngay cả những gia đình không giàu, những cách sống phóng khoáng vượt ra ngoài những điều kiện cho phép. Buổi sáng, mỗi người điểm tâm một kiểu. Buổi trưa thì càng tùy tiện, ai nấy đều ăn tự do ở gần cơ quan mình hoặc gần nhà trường mình học. Buổi chiều may ra mới có khả năng ăn tập trung nhưng lại xảy ra hiện tượng về lỗ mỗ không cùng một lúc, phải ăn làm nhiều lần, thức ăn phải chia ba sẻ bốn, thật nhiêu khê, phiền toái. Muốn tổ chức một buổi sinh hoạt tập trung toàn gia đình lớn thật rất khó. Nhiều lúc muốn trao đổi giải quyết một vấn đề chung lại phải giải quyết bằng điện thoại di động với từng người.
Những cuộc cãi cọ giữa bố mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau thường diễn ra gay gắt. Lớp trẻ hay cho mình mới thức thời, nắm thời cuộc còn người nhiều tuổi là cũ kỹ, bảo thủ nên có thái độ xấc xược căng thẳng, không giữ được tôn ti trật tự. Người già ở thành thị thường được chăm sóc chu đáo hơn về vật chất nhưng đa số thường vẫn cảm thấy cô đơn lạnh lẽo, vẫn thấy tủi thân, luôn không hài lòng. Khái niệm về mái ấm gia đình đang bị mờ dần.
Việc yêu thương và kết hôn bây giờ dĩ nhiên là tự do hơn, nhưng điều đáng nói là quá thoáng, bất chấp mọi định hướng chỉ giáo của cha mẹ, bất chấp cả mọi tiêu chí thông thường. Họ yêu nhau, lấy nhau dễ dàng và do đó cũng ly thân, ly dị dễ dàng.
Cuộc sống tự do đã làm cho quy mô từng hộ gia đình bé lại. Nhiều người thích sống riêng, ở riêng. Quy mô sống chung gia đình ba, bốn thế hệ ít dần; cấu trúc nhỏ hơn nhưng lại lỏng lẻo hơn, thiếu sự bền chặt cần thiết.
2. Học tập, đọc sách kém đi; giải trí quá nhiều; lao động lười biếng

Từ ngày có máy vi tính và công nghệ thông tin, cuộc sống tinh thần của người dân, nhất là thanh thiếu niên được nâng cao hẳn. Song không ít trong lớp trẻ đã không tận dụng hết mọi ưu thế của nó mà bị các hình thức giải trí kéo sa đà tạo nên nhiều hậu quả tai hại. Ngay cả truyền hình, video cũng vậy, nhiều em đã bị mặt trái của nó quật lại.
Các trò chơi thể thao như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông… nhưng nhiều em đã không dừng lại đúng mức để cho nó tiêu hoa hết thời gian, sức lực làm ảnh hưởng xấu, rất xấu đến kết quả học tập, đọc sách, nghiên cứu trong thanh thiếu niên giao đoạn này sa sút hẳn.
Đã có một tờ báo kêu lên: “Hãy cứu văn hóa đọc”. Đã có một cuộc điều tra ở một khu tập thể về tình trạng đọc sách và tự học của lứa tuổi từ 15 đến hết 18 trong một tháng: 98% không đọc một cuốn sách nào, 70% không học và làm hết bài tập.
Còn về mặt lao động thì thật thảm hại. Thanh thiếu niên ở thành phố, nhất là con nhà tương đối khá giả trở lên thì hầu như không ưa và không biết lao động. Mọi thứ lao động chân tay, lao động kỹ thuật trong cuộc sống gia đình đều được bao thầu.
Hệ thống các công ty, các nhà hàng dịch vụ, hệ thống lao động tự do đã phát triển nhanh chóng chưa từng thấy. Có tiền là có hết, là mọi việc sẽ được hoàn tất. Ở trong nhà thì đã có Osin làm đủ mọi việc. Ngay khi đang ngồi ăn, cần cái gì, đôi đũa hay cái thìa, cũng đã có người lấy giúp, không cần phải tự mình đứng dậy. Các em không có việc gì để làm. Do đó, các em ngại lao động, ngại khó, ngại khổ, hầu hết trở thành cô chiêu cậu ấm là điều dễ hiểu.
2. Hoang phí, khái niệm tiết kiệm ít được nhắc tới.

Do điều kiện sống được nâng cao, mức thu nhập của nhiều hộ gia đình ở thành thị tăng lên rõ rệt, nhưng việc giáo dục ý thức tiết kiệm và văn hóa tiêu tiền thì lại thiếu quan tâm nên để xảy ra tình trạng lãng phí nặng nề, tiêu tiền xả láng.
Áo quần và những đồ dùng khác hơi cũ, hơi lạc mốt là liền thải ra, chất đống. Thấy cái gì mới hay là mua, bất chấp giá cả. Nhiều vật dụng thừa thãi, lắm thứ cùng một chức năng. Thức ăn ngày nào cũng để thừa bứa, phải đổ đi.
Không chỉ ở lớp trẻ mà cả ở những thành phần trung niên trong nhà cũng mắc bênh hoang phí, kể cả hoang phí về thời gian. Thời giờ chơi bời của họ thường nối liền sau lúc đi làm, đi họp hoặc đi học nên thời gian vắng nhà của họ là dài dằng dặc. Hiện tượng đi chơi lang thang, nhậu nhẹt lai rai, nồi tập trung tán ngẫu cứ diễn ra triền miên. Đường phố, siêu thị, các cửa hàng, CLB, sân vận động, công viên, rạp hát, vũ trường là nơi tụ hội của họ. Nhiều khi chẳng có chuyện gì để nói, trò gì để chơi họ cũng đến với nhau. Phong cách sống thoải mái về thời gian như thế trở thành thói quen, kéo dài cho đến khi đã có gia đình, đã làm bố, làm mẹ, đã là ông chủ lớn, đã có cả một gia thất. Thời gian trôi đi không bao giờ trở lại, lãng phí thời gian là lãng phí tuyệt đối.
Từ cuộc sống hoang phí, không kiểm soát được việc tiêu tiền, không kiểm soát được thời gian buộc lòng những người chủ chốt lo việc kiếm tiền phải kiếm cho được tiền ngày càng nhiều với bất cứ cách nào, lúc nào. Từ đó sinh ra nhiều điều phức tạp xảy ra đối với an ninh xã hội, với phẩm cách con người, với hạnh phúc bền vững của gia đình.
Thực trạng trên đã làm cho những người có lương tri lo lắng, đáng báo động. Song cũng có không ít người tỏ thái độ mặc kệ nó hơi đâu mà lo, cuộc sống sẽ tự điều chỉnh.
Nếu không có kế hoạch toàn dân, kiềm chế và xóa bỏ mặt trái của sự phát triển nảy sinh thì bánh xe tiến hóa của lịch sử chậm lại, ta không thể làm chủ được tương lai.
Nguồn: http://chungta.com
Thuyết hệ thống tâm lý gia đình
Thuyết hệ thống tâm lý gia đình do Murray Bowen đề xướng từ thập niên 1950. Sau đây là những ý chính:
1. Đa thế hệ
Cá tính của con người và cách ứng xử của họ trong gia đình chịu ảnh hưởng từ nhiều thế hệ. Thí dụ những cá tính phục tùng, trấn áp, hay gây sự, lạnh lùng… có thể trở nên cố định hơn, hoặc đậm nét hơn qua các thế hệ (cha nào con nấy). Mặt khác, Bowen còn chỉ ra rằng các mối quan hệ với đại gia đình có thể cũng quan trọng cho sự phát triển cá tính của con người như các mối quan hệ với gia đình hạt nhân/nuclear family.
2. Sự tách rời của cá nhân
Đây là sự tách rời cả về vật chất lẫn tâm lý. Qua quá trình trưởng thành, cá nhân lành mạnh sẽ dần dần tách rời khỏi gia đình, ở riêng, có suy nghĩ, cảm xúc, và cuộc sống riêng. Sự phát triển lành mạnh này không làm hại đến mối quan hệ tốt đẹp với gia đình gốc.
3. Mối quan hệ ba chiều
Quan hệ gần gũi giữa hai người trong gia đình có thể trở nên căng thẳng (hai người, dù thương yêu nhau đến nấy, cũng không tránh khỏi những lúc mâu thuẫn, xung đột) vì vậy cần người thứ ba để được ổn định. Người thứ ba (có thể là nhiều người thứ ba khác nhau tùy theo nhu cầu của hai người kia) giữ vai trò trung gian hoà giải, cố vấn tâm lý, hay an ủi (nghe than thở). Thí dụ khi người mẹ có chuyện buồn phiền với người cha thì than thở với bà ngoại.
Quan hệ ba chiều là lành mạnh, tuy nhiên, trong một số trường hợp, nó có thể có ảnh hưởng tai hại đến sự tách rời (trưởng thành lên) của cá nhân. Thí dụ: người mẹ nạn nhân của bạo hành bởi người cha, luôn luôn dựa vào đứa con trai để tìm nguồn an ủi và chỗ nương tựa tinh thần. Tình trạng này sẽ biến đứa con thành người bảo vệ mẹ và hoà giải bố mẹ. Vai trò kéo dài này sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng thành tự nhiên của đứa con nghĩa là tách rời khỏi suy nghĩ, cảm xúc, vấn đề, cuộc sống thường ngày của gia đình gốc và xây dựng suy nghĩ, cảm xúc, vấn đề, cuộc sống thường ngày của riêng mình.
4. Bồn Chồn Lo Lắng/Anxiety Trong Hệ Thống Tâm Lý Gia Đình
Bồn chồn lo lắng là một cảm xúc khó chịu nhưng lành mạnh có công dụng như một tín hiệu báo trước các mối đe doạ hay hiểm nguy (Marks, 1987). Triệu chứng của bồn chồn khó chịu là cảm giác căng thẳng và sự hoạt động vượt mức bình thường của hệ thống thần kinh trung ương. Tình huống gây ra cảm giác bồn chồn khó chịu có thể là các cơ hội phát triển (thí dụ sinh viên sắp đến kỳ thi ra trường, cô gái sắp đến ngày lên xe hoa…) hoặc là các mối đe doạ. Cảm giác này chỉ trở thành vấn nạn khi nó cản trở khả năng giải quyết sự việc của cá nhân. Có bốn loại gia đình thường xảy ra bồn chồn khó chịu:
1) Gia đình vợ chồng không hoà thuận: mỗi người trút cảm giác bồn chồn khó chịu của mình lên người kia và tìm cách điều động, kiểm soát người đó.
2) Gia đình một người trong hai vợ chồng có vấn đề tâm lý: người còn lại cố gắng thích ứng để duy trì hạnh phúc, và vì vậy có thể có cảm giác bồn chồn khó chịu.
3) Gia đình có một hay nhiều đứa con có vấn đề tâm lý: cha mẹ sẽ hướng cảm giác bồn chồn khó chịu của mình vào đứa trẻ, làm cho nó có những phản ứng đối phó tiêu cực.
4) Gia đình có những thành viên gắn bó với nhau một cách bất bình thường về tâm lý, làm cản trở quá trình tách rời khỏi gia đình một cách lành mạnh và cần thiết của cá nhân. Mối quan hệ gắn bó quá đáng này, mà Erikson gọi là “vướng mắc”/enmeshed, tạo ra căng thẳng, và để giảm căng thẳng những người liên quan sẽ có thể cố gắng tránh mặt nhau. Thí dụ trong nhiều gia đình Á châu cha mẹ thường tự hào họ hy sinh tất cả cho con cái, vui cái vui của con, buồn cái buồn của con, coi sự thành công hay thất bại của con cái là thành công hay thất bại của mình. Sự nhập chung/fusion này không lành mạnh, nó làm cản trở sự tách rời tự nhiên của đứa con, có thể tạo ra sự căng thẳng cho mọi người liên quan và đứa con có thể sẽ tìm cách tránh xa bố mẹ.
Trong bốn loại gia đình trên, bầu không khí căng thẳng ảnh hưởng đến tất cả các thành viên và có thể truyền qua các thế hệ. Trong các gia đình bất hạnh này, những thành viên kém khả năng tách rời sẽ có triệu chứng bồn chồn khó chịu cao, sẽ có khuynh hướng tìm đến bạn bè, hay chồng, vợ cũng có triệu chứng bồn chồn khó chịu như mình, và thế là sự bồn chồn khó chịu được truyền sang và gia tăng qua các thế hệ.
5. Cha mẹ đổ lỗi cho con cái
Đây là một trong những hình thức “tự vệ tâm lý”/defense mechanism. Một trong hai vợ chồng có cảm xúc giận dữ với người kia nhưng lại đổ cảm xúc đó cho con cái vì như vậy an toàn hơn. Thí dụ người vợ giận chồng đi làm về trễ nhưng nói với người chồng “các con phải ăn cơm một mình chúng nó buồn”. Phương pháp tự vệ tâm lý này là cách truyền cảm xúc bồn chồn lo lắng qua các thế hệ. Những đứa con thường xuyên lâu dài bị cha mẹ đổ cho những cảm xúc, đặc tính tiêu cực sẽ có thể tin là chúng thực sự có những cảm xúc, những cá tính đó và có cách cư xử thích ứng. Trong thí dụ trên, có thể sự kiện bố đi làm về trễ không ảnh hưởng nhiều đến vui buồn của đứa trẻ (có khi các con còn vui khi bố vắng nhà nếu bố khó tính, hay la rầy), nhưng do ảnh hưởng của mẹ, đứa trẻ có thể dần dần sẽ có cảm xúc buồn. Một thí dụ khác: nếu đứa trẻ thường xuyên bị bố mẹ mắng là ngu dốt, đứa trẻ sẽ có khả năng mất dần ý chí phấn đấu học hỏi và trở thành ngu dốt thật sự.
Những nhận thức sai lệch của Tuổi Trẻ
1. Từ từ đi đâu mà vội, đời còn dài! (không quí trọng và tiết kiệm thời gian)

Nghĩ tới lớp trẻ hôm nay người ta nghĩ tới một lớp người năng động, xông xáo, hoạt động với một cường độ và nhịp độ cao nhưng không ít người không biết tiết kiệm thời gian, đợi nước đến chân mới nhảy. Ví dụ, sinh viên đến lúc thi mới học, bài đến hạn mới làm, làm việc cứ khất lần việc này việc kia vì cho rằng đi đâu mà vội, nhưng có sự biến đột xuất là công việc bỏ bê, cuống quít cả lên, chất lượng không cao. Một bộ phận học sinh, sinh viên sa vào ăn chơi lêu lổng, không học hành phấn đấu, ai có ý thức nhắc nhở thì được nghe đi đâu mà vội đời còn dài chơi cái đã. Thực ra những ngôn từ trên đây chỉ là lời bao biện. Hãy nghe những câu châm ngôn để biết quý trọng thời gian hơn. Ví như: “việc hôm nay chớ để ngày mai”; “thời gian không chờ đợi ai cả”; “vàng đã quý thời gian còn quý hơn vàng”!

2. Làm gì nhiều cho mệt, chơi cái đã hoặc thử một lần cho biết (tâm lý hưởng thụ)

Ngày nay, phần lớn ai nấy đều có chức phận riêng của mình. Thậm chí nhiều người bận tối mắt tối mũi với hàng núi công việc, họ làm việc chăm chỉ, ít khi có thời gian cho bản thân. Tất nhiên thái quá không hẳn đã là tốt, song có một bộ phận tuy trẻ tuổi nhưng đã có tâm lý thích hưởng thụ quá sớm. Ví dụ sinh viên không chịu đọc sách, không chịu đi thư viện mà thích ăn chơi, đua đòi. Trí thức trẻ không chịu nghiên cứu thì trình độ làm sao được nâng lên. Nhiều người chỉ thích chơi bời mà không chịu làm việc. Tôi quen một trí thức trẻ trong lĩnh vực khoa học xã hội, anh rất ít khi chịu đọc sách nghiên cứu khi thấy bạn mình chịu khó mày mò thì anh bạn tôi buông một câu: đọc làm gì nhiều cho mệt, đọc nhiều có hái được ra tiền đâu. Thử hỏi như vậy sẽ có đâu những kiến thức sâu sắc mới mẻ phục vụ cho chuyên môn. Một số bạn trẻ đi ra học hành, làm ăn giao lưu bị rủ rê ăn chơi, đã tự cho mình cái quyền thử một lần cho biết. Xin thưa, có những cái chỉ thử một lần thì sẽ có nguy cơ lần thứ hai và gây nghiện như hút ma túy chẳng hạn. Ai đã dính vào nàng tiên nâu thì khó từ biệt, bao nhiêu cơ hội cũng sẽ rời ta. Thực ra, trong thời buổi kinh tế thị trường, xã hội tiêu thụ xuất hiện con người rất dễ nẩy sinh tâm lý thực dụng và hưởng thụ. Thanh niên chúng ta không ít người đã cổ vũ với những quan niệm đó. Đó cũng là một nhận thức sai lệch.

3. Có tiền là có tất cả! (coi trọng sức mạnh của đồng tiền)

Sức mạnh quái ác của đồng tiền đã được các nhà văn, nhà thơ trong lịch sử văn chương cảnh báo, ví như Shakepear của nước Anh, Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Ấy vậy, nhưng trong lớp trẻ hôm nay không ít thanh niên cậy có tiền là cư xử thô lỗ thiếu văn hóa với người khác nhất là những người nghèo. Sẵn sàng bỏ tiền để thuê làm chuyện này, chuyện kia. Biểu hiện một số sinh viên bỏ tiền chạy điểm, số khác bỏ tiền để tìm kiếm tình yêu, bỏ tiền nhờ học thuê, thi mướn... Đây là những lệch lạc mà bản thân họ rồi cũng phải trả giá. Không ít thanh niên ngày nay ảnh hưởng quan niệm của xã hội đen cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng nhiều tiền. Đây là những quan niệm hết sức sai lầm, nếu đồng tiền có thể thay thế được mọi thứ thì sẽ không có tri thức chân chính, tình cảm chân thành và mọi thứ đều có thể trở thành hàng hóa thì thật là nguy hiểm. Thanh niên cần phải phê phán những quan niệm sai trái này.

4. Đời có số (phó mặc số phận)

Một số thanh niên ngày nay có tâm lý tin vào số phận. Biểu hiện: thi trượt, tại số. Không xin được việc, tại số. Làm ăn thất bát tại số. Số phận là gì, điều này không ai lý giải được dưới góc độ khoa học, đó vẫn là niềm tin, đành rằng mỗi người đều có những lôgic cuộc đời không ai giống ai cả. Tuy nhiên, nếu quá tin vào cái gọi là số phận sẽ rơi vào duy tâm, phản khoa học mà thanh niên ngày nay cần có trí tuệ nhận biết những gì là hợp lý, không hợp lý. Nếu có số phận ngồi chờ số phận thì mọi sự nỗ lực của bản thân mỗi người sẽ thừa, vì không học vẫn có thể đỗ đạt, không làm vẫn có thể giàu có, không tập luyện cũng có thành tích cao…những điều này là không tưởng. Cơ hội may mắn chỉ đến với ai bền lòng, có hiểu biết và nỗ lực vươn lên trong mọi hoàn cảnh.


5. Xưa quá rồi! (coi thường những cái xưa cũ)

Một bộ phận thanh niên ngày nay chạy theo thời đại mà quên mất những giá trị xưa cũ. Biểu hiện coi thường hoặc nhận thức sai lệch về những gì ông cha đã làm trong quá khứ. Họ thường nói vấn đề đó xưa lắm rồi, bây giờ ai nghĩ thế, ai làm thế. Chúng ta đâu biết rằng chỉ có văn minh là xưa cũ, còn văn hóa không bao giờ mất đi sức sống, văn hóa luôn bắt rễ vào hiện tại và thúc đẩy hiện tại. Nếu ta không coi trọng những giá trị văn hóa gia đình và dân tộc, ta sẽ mất gốc và thiếu đi sức sống bên trong vì vậy sự phát triển của ta sẽ không thể lâu bền được. Nhiều giá trị văn hóa dân tộc thanh niên ngày nay cần phát huy như coi trọng chữ hiếu kính trên nhường dưới, coi trọng lòng yêu quê hương đất nước, trọng nghĩa, trọng tình…

6. Việc đó dễ ợt, mình cũng làm được! (chưa biết lượng sức mình, thiếu khiêm tốn)

Thanh niên là lứa tuổi căng tràn nhựa sống, nhất là trong thời đại mới, thanh niên rất hãnh tiến, tự tin vào bản thân mình. Vì thế, nhiều thanh niên sinh ra tự cao, tự phụ coi mình là có tài, xem thường người già, và người khác. Thanh niên ôm nhiều mộng lớn đôi khi cứ ngỡ việc gì mình cũng có thể làm được. Nhiều người khi thấy bạn mình làm được việc này việc kia cũng xem thường việc đó mình không làm chứ nếu làm cũng làm được. Điều này làm cản trở sự tiến bộ của thanh niên. Thực ra nói và làm khác nhau, để bắt tay vào làm việc gì đó đạt thành công lại càng không dễ. Vì điểm này mà nhiều thanh niên là sinh viên, là trí thức, công chức trẻ tuổi thường mang tiếng là thiếu khiêm tốn, thiếu cầu thị, chưa biết lượng sức mình. Cổ nhân đã dạy: đừng có ngựa non háu đá, để nhắc nhở những người không biết lượng sức mình. Thanh niên cần khắc phục điểm này mới có thể vươn lên tiến bộ.

Trên đây là những nhận thức sai lệch mà không ít người trẻ tuổi đang gặp phải. Rõ ràng, tác hại của nó là rất lớn, chúng cản trở quá trình học tập rèn luyện trưởng thành của mọi người.

Tuổi trẻ có nhiều điểm mạnh vì họ là lứa tuổi thanh xuân của cuộc đời, cái sức và cái trí còn dồi dào, minh mẫn, song cũng có không ít những điểm yếu. Có những hạn chế là không tránh khỏi của tuổi đời và trải nghiệm nhưng cũng có những hạn chế là do bảo thủ, định kiến, ích kỷ. Vấn đề quan trọng là sự tự nhận thức của mỗi thanh niên, có được cách nhìn nhận đúng đắn và tiến bộ về những vấn đề của cuộc sống. Để làm được điều đó không có cách gì hơn là thanh niên phải không ngừng quan sát, lắng nghe, học hỏi chuyên gia, những người thành đạt đi trước, giao lưu thân thiện với những bạn tốt, bạn tiến bộ. Như Bác Hồ đã dạy, là học trong sách vở, học ở trường đời. Thanh niên cũng rất cần có được sự giáo dục, giúp đỡ của những người có kinh nghiệm, của các bậc phụ huynh, của thầy giáo, cô giáo và các đoàn thể chính trị - xã hội. Một khi những điểm yếu được khắc phục thì mỗi thanh niên sẽ là chủ nhân tương lai có ích.












CÁC HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ GIA ĐÌNH
THIẾT CHẾ GIA ĐÌNH
Là tập hợp các khuôn mẫu hành vi, các giá trị, chuẩn mực bền vững được quy định và được tiêu chuẩn hóa dung để điều tiết các hành vi cá nhân phù hợp với vai trò được mong đợi nhằm thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của tổ chức gia đình
Thiết chế gia đình được nghiên cứu dưới các góc độ sau:
- Nghiên cứu gia đình với tư cách là đơn vị xã hội tương đối độc lập trong xã hội
- Mối quan hệ giữa thiết chế gia đình với các thiết chế cơ bản khác của xã hội
CẤU TRÚC GIA ĐÌNH
Là số lượng, thành phần và mối quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình. Không có cấu trúc thuần nhất về gia đình
Cấu trúc gia đình được nghiên cứu dưới các góc độ sau:
- Quan hệ giữa gia đình với xã hội
- Các mối quan hệ bên trong gia đình











THEO QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN NỮ QUYỀN
- Gia đình là trung tâm áp bức giới
- Cống hiến của các nhà nữ quyền trong nghiên cứu gia đình:
+ Làm thay đổi nhận thức lý luận về gia đình
+ Đưa ra chủ đề nghiên cứu mới: Phân công lao động, bạo lực, hoạt động chăm sóc trong gia đình.



2. Biến đổi gia đình ở Việt Nam
2.1. Sự biến đổi chức năng gia đình
CHỨC NĂNG BIẾN ĐỔI
- Chức năng kinh tế
+ Gia đình từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa
+ Chuyển đổi tư kinh tế gia đình hang hóa thành kinh tế gia đình thị trường hiện đại
+ Thách thức của kinh tế toàn cầu
+ Biến đổi về sở hữu và thừa kế tài sản
+ Là đơn vị tiêu dung


- Chức năng sinh đẻ:
- Động cơ sinh đẻ: Kinh tế, Bảo hiểm khi về già, bảo hiểm bền vững của hôn nhân, tự khẳng định mình, đạo đức tôn giáo, thừa kế
+ Sinh đẻ và tình dục
+ Nhu cầu về con
+ Nhu cầu về con trai
+ Giá trị của đứa con
+ Giá trị lao động
+ bảo hiểm bền vững của hôn nhân
- Chức năng xã hội hóa của gia đình
+ Hình thành phẩm cách của cá nhân và khẳng định giá trị trong xã hội
- Chức năng giáo dục
+ Giáo dục đạo đức
+ Giáo dục ứng xử
+ Giáo dục đạo hiếu
+ Giáo dục ứng xử trong cộng đồng
+ Giáo dục lao động nghề nghiệp
+ Giáo dục giới tính


Sự biến đổi:
+ Sự phủ định nội dung, phương pháp xã hội hóa của gia đình truyền thống
+ Đề cao vai trò giáo dục xã hội thay giáo dục gia đình
+ Tình trạng không chuẩn mực trong chức năng xã hội hóa của gia đình
- Chức năng tâm lý tình cảm
+ Nhu cầu thỏa mãn tâm lý-tình cảm tăng lên






+ Những thách thức:
Không duy trì, phát triển tình yêu sau khi kết hôn,
ngoại tình,
ly hôn,
sự khác biệt về lối sống giữa các thành viên trong gia đình,





GIẢI PHÁP
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
- Tăng cường xây dựng, hoàn thiện pháp luật, chính sách và hệ thống dịch vụ xã hội lien quan đến gia đình
- Tăng cường công tác nghiên cứu khảo sát về gia đình
3. Sự biến đổi cấu trúc gia đình
3.1. Sự biến đổi quan hệ hôn nhân
- Tuổi kết hôn
- Lựa chọn hôn nhân và khoảng cách địa lý
- Tiêu chuẩn lựa chọn hôn nhân
- Quyền quyết định hôn nhân
- Nghi thức kết hôn
- Nơi cư trú của vợ chồng
- Chung sống không đăng ký kết hôn
3.2. Sự biến đổi quan hệ vợ chồng
- Quan niệm người chủ gia đình
- Phân công lao động giữa vợ và chồng
- Kiểm soát các nguồn lực trong gia đình
- Bạo lực gia đình
3.3. Sự biến đổi quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
- Giữa cha mẹ và con
- Giữa các thành viên khác

Chương 3: GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VIỆC BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH
3.1. Quan điểm về gia đình
3.2. Những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình Việt Nam
3.3. Các giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế

7. Học liệu
7.1. Sách
- Ph.Ăngghen: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước, NXB Sự thật, Hà nội 1961
- Montesquieu: Tinh thần pháp luật, NXB Đà nẵng 2010
- Khuất Thu Hồng, Gia đình truyền thống-một số tư liệu xã hội học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996
- Nguyễn Văn Nam: Lịch sử Việt Nam, NXB Thời đại, 2010
- Phan Đại Doãn: Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998
- Vũ Tuấn Huy: Xu hướng gia đình ngày nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2004
- Vũ Ngọc Khánh: Văn hóa gia đình Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà nội 2007
- Đặng Phương Kiệt: Gia đình Việt Nam- Các giá trị truyền thống và những vấn đề tâm-bệnh lý xã hội, NXB Lao động, Hà nội 2006
- Phan Ngọc: Vấn đề gia đình Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1998
- Lê Thi, Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2002
- Lê Ngọc Văn, Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội 1998
- Trần Thị Kim Xuyến: Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện đại, NXB Thống kê, Hà nội 2001
- Lương Ninh: Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Khoa học xã hội, 2010
- Jean Jacques Rousseau: Bàn về khế ước xã hội, NXB Đà Nẵng, 2010
- Nguyễn Thị Thọ: Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 2011;
- Quốc triều hình luật, NXB Chính trị quốc gia, 1995;
- Trần Quang Trung: Nhận diện quyền dân sự trong bộ luật Hồng Đức, NXB Lao động, 2010;
- Nguyễn Văn Nam: Lịch sử Việt Nam, NXB Thời đại, 2010
- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Các văn kiện quốc tế về quyền con người, NXB TPHCM, 1997;
- Mai Hồng Quỳ: Hành trình của quyền con người, NXB Tri thức, 2010
- Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 Việt Nam cộng hòa
Các bài viết
- Minh Anh: Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, 2005, số 10
- Lê Thị Tuyết Ba: Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, 1999, số 1
- Đỗ Thái Đồng: Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam bộ Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, 1990, số 3
- Hồ Ngọc Đại: Tam giác gia đình, Tạp chí Xã hội học, 1990, số 3
- Lê Thế Huệ: Về dân số Việt Nam thời cổ trung đại, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 1991, số 6
- Trần Hàn Giang: Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới, Tạp chí Gia đình và giới, 2003, số 6
- Lê Ngọc Văn: Một số quan điểm của lý thuyết nữ quyền trong nghiên cứu gia đình, Tạp chí Gia đình và giới, 2005, số 1
- Mai Huy Bích: Giới và thuyết nữ quyền phương Tây, Tạp chí Gia đình và giới, 2002, số 5
- Mai Huy Bích: Nâng cao tính khoa học của nghiên cứu gia đình, Tạp chí Gia đình và giới, 1999, số 3
- Lê Ngọc Văn: Một vài nét về thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí Gia đình và giới, 2004, số 3
- http://ifgs.org.vn
- Các tài liệu khác
8.Phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá
a. Đánh giá thường xuyên:
- Kiểm diện
- Minh chứng tham gia seminar, làm việc nhóm, bài tập nhỏ.
b. Đánh giá định kỳ
Tiểu luận 20%
Bài thi cuối kỳ 80%



BÀI 3: CÁC GIẢI PHÁP
GIẢI PHÁP 1: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2005-2010
Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010 nhằm củng cố, ổn định và phát triển gia đình, góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: “Nâng cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”.
QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU
1. Quan điểm
a) Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội, sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Xây dựng gia đình Việt Nam ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động lực của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
b) Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng, gia đình và cá nhân là yếu tố quyết định sự thành công của công tác gia đình.
c) Gia đình có trách nhiệm với các thành viên và với xã hội. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình.
d) Giáo dục và xây dựng gia đình luôn kế thừa, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn liền với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.
e) Đầu tư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững. Nhà nước ưu tiên, bảo đảm nguồn lực, đồng thời huy động sự đóng góp của toàn xã hội và tranh thủ sự trợ giúp của quốc tế cho công tác gia đình.
2. Mục tiêu của Chiến lược
a) Mục tiêu chung
Từng bước ổn định, củng cố và xây dựng gia đình ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc.
b) Các mục tiêu cụ thể


Mục tiêu 1: Củng cố, ổn định gia đình trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; thực hiện quy mô gia đình ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con); thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trách nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi.
Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010:
Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa lên 80%.
Chỉ tiêu 2: Mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con.
Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức về hôn nhân và gia đình lên 80%.
Chỉ tiêu 4: Tăng tỷ lệ người cao tuổi trong gia đình được con, cháu chăm sóc, phụng dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình lên 90 - 100%; trong trường hợp người cao tuổi không còn người chăm sóc, phụng dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hoặc có người chăm sóc, phụng dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình nhưng không đủ khả năng chăm sóc, phụng dưỡng thì được Nhà nước, cộng đồng hỗ trợ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Chỉ tiêu 5: Tăng tỷ lệ gia đình thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em lên 90 - 100%.
Mục tiêu 2: Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; tăng cường phòng ngừa, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình; tăng cường phòng, chống bạo lực trong gia đình; khuyến khích phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp và vận động người dân xoá bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình.
Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010:
Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ gia đình được tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình trong ổn định và phát triển xã hội lên 90 - 100%.
Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ lệ tảo hôn của người dân thuộc các dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, bình quân hàng năm từ 10 - 15%.
Chỉ tiêu 3: Giảm tỷ lệ bạo lực trong gia đình, bình quân hàng năm từ 10 - 15%.
Chỉ tiêu 4: Giảm tỷ lệ gia đình bị các tệ nạn xã hội xâm nhập vào, bình quân hàng năm từ 10 - 15%.
Mục tiêu 3: Nâng cao mức sống gia đình trên cơ sở phát triển kinh tế gia đình, tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với các gia đình liệt sỹ, gia đình thương binh, gia đình bệnh binh, gia đình của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010:
Chỉ tiêu 1: Về cơ bản, không còn hộ gia đình nghèo.
Chỉ tiêu 2: 100% gia đình liệt sỹ được hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước; gia đình thương binh, gia đình bệnh binh, gia đình của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn được Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cộng đồng quan tâm chăm sóc, hỗ trợ nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần.
Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ gia đình có nhà ở lên 100%; giảm 50% gia đình ở nhà tạm.
Chỉ tiêu 4: Tăng tỷ lệ gia đình của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ văn hóa, y tế, giáo dục và các phúc lợi xã hội khác lên 90%.
Chỉ tiêu 5: Tăng tỷ lệ dân cư ở nông thôn được dùng nước sạch lên 85%.
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Lãnh đạo, tổ chức và quản lý
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với công tác gia đình; thực hiện có hiệu quả quản lý nhà nước và đẩy mạnh quá trình xã hội hoá đối với công tác gia đình.
a) Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với công tác gia đình
Cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp cần xác định công tác gia đình là một nội dung quan trọng trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm và dài hạn; coi đây là nhiệm vụ thường xuyên; chủ động rà soát, đánh giá tình hình gia đình tại địa phương; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể giải quyết những thách thức khó khăn về gia đình và công tác gia đình; xoá bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình; phòng chống các tệ nạn xã hội, bạo lực trong gia đình; đấu tranh chống lối sống thực dụng, vị kỷ, đồi truỵ; tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình.


Cán bộ, đảng viên gương mẫu chăm lo xây dựng gia đình; đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá; gắn việc xây dựng gia đình với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
b) Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác dân số, gia đình và trẻ em các cấp
Chính quyền các cấp cần quy hoạch đủ cán bộ, đào tạo, hỗ trợ cán bộ có năng lực phụ trách công tác gia đình. Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác dân số, gia đình và trẻ em các cấp.
c) Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác gia đình. Xây dựng chính sách, luật pháp nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác gia đình
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chương trình, kế hoạch về công tác gia đình, phân bổ công khai nguồn lực, tập trung cho cơ sở, tạo điều kiện cho gia đình có đủ năng lực thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình.
Thực hiện việc kiểm tra, giám sát thường xuyên và đánh giá định kỳ trên cơ sở kế hoạch hoạt động và hệ thống chỉ báo đánh giá được xây dựng thống nhất.




Nghiên cứu xây dựng mô hình gia đình Việt Nam với các tiêu chí phù hợp, chỉ đạo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nhân rộng mô hình.
Thực hiện có hiệu quả việc phối hợp lồng ghép các hoạt động giữa các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội trong việc thực hiện các nhiệm vụ của công tác gia đình.
Thiết lập hệ thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu về gia đình, thu thập, xử lý và cung cấp kịp thời và chính xác những thông tin cần thiết phục vụ cho việc chỉ đạo, điều phối các hoạt động của công tác gia đình.
Quản lý và phổ biến thông tin, số liệu về gia đình theo đúng các quy định của Nhà nước.
d) Đẩy mạnh xã hội hoá công tác gia đình. Tăng cường sự tham gia thực hiện Chiến lược của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, gia đình, cộng đồng và mọi người dân
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, những người tình nguyện và cộng đồng tham gia xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, các loại hình dịch vụ gia đình nhằm củng cố, ổn định và phát triển gia đình.



Tạo phong trào rộng khắp với sự tham gia tích cực của gia đình, cộng đồng, nhà trường và toàn xã hội trong việc xây dựng gia đình ít con, no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc.

Xây dựng các phong trào nhằm khuyến khích và nhân rộng các mô hình gia đình phát triển bền vững như: gia đình làm kinh tế giỏi, gia đình nhiều thế hệ chung sống mẫu mực, gia đình hiếu học ...
Gia đình có nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước; có ý chí tự lực vươn lên; gìn giữ và phát huy văn hoá gia đình, dòng họ, tích cực tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, quy chế dân chủ cơ sở.
Gia đình phải thực hiện tốt các chức năng, đặc biệt là phấn đấu mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con, quan tâm giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, chăm sóc và nuôi dưỡng người cao tuổi, tăng cường giáo dục trong gia đình, củng cố và xây dựng quan hệ bình đẳng, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên gia đình.
Gia đình cần phát huy nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng; củng cố và phát huy tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để đời sống gia đình ngày càng cải thiện, đời sống cộng đồng ngày càng văn minh, tiến bộ. Hoạt động củng cố, ổn định và phát triển gia đình phải gắn với hoạt động phát triển cộng đồng.
Tăng cường phối hợp, lồng ghép hoạt động giữa các chương trình, dự án liên quan đến gia đình với sự tham gia rộng rãi của các bộ, ngành, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
2. Truyền thông, giáo dục, vận động
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng và các thành viên gia đình về vị trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hôn nhân và gia đình; giúp các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ động phòng chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.
a) Nội dung giáo dục, truyền thông
Giáo dục và tuyên truyền sâu rộng các chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, chú trọng những nội dung liên quan đến Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh Dân số.
Cụ thể hoá công tác giáo dục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và trách nhiệm của gia đình đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước; quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trách nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi; cung cấp kiến thức và kỹ năng về tổ chức cuộc sống gia đình văn minh, tiến bộ; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, bảo vệ các di tích lịch sử văn hoá; kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; tiếp tục hoàn thiện các tiêu chuẩn của gia đình văn hoá theo mục tiêu của Chiến lược, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước và vận động các gia đình đăng ký phấn đấu trở thành gia đình văn hoá.
b) Xây dựng các loại hình truyền thông, giáo dục và vận động phong phú, đa dạng phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng loại hình gia đình và từng nhóm đối tượng
Huy động sức mạnh tổng hợp của các loại hình thông tin đại chúng, đặc biệt là các hình thức truyền thông trực tiếp tại cộng đồng. Khuyến khích việc sáng tạo các biện pháp và hình thức truyền thông, giáo dục. Hình thành các chương trình tư vấn trên các kênh truyền hình, phát thanh, internet, báo, tạp chí...
Tổ chức thường xuyên việc tuyên truyền và vận động với các quy mô và loại hình phù hợp từng đối tượng, vùng dân cư, địa lý. Tăng cường hoạt động giáo dục kiến thức về gia đình trong nhà trường, cộng đồng và xã hội.
Tiếp tục xây dựng và phát triển các Trung tâm tư vấn, dịch vụ dân số, gia đình và trẻ em để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các gia đình.
c) Tăng cường sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thông
Biên soạn các tài liệu hướng dẫn tổ chức cuộc sống gia đình, giáo dục gia đình, hôn nhân và gia đình, giới và bình đẳng giới, kỹ năng làm cha mẹ, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, phòng chống bạo lực và tệ nạn xã hội trong gia đình và cộng đồng.
Nghiên cứu, lựa chọn và sản xuất các sản phẩm truyền thông, giáo dục chất lượng cao phù hợp với từng nhóm đối tượng dân cư. ưu tiên sản xuất và cung cấp các sản phẩm truyền thông, giáo dục làm cẩm nang cho các gia đình.
Phổ biến các bài học kinh nghiệm và nhân rộng các gương gia đình điển hình tiên tiến.
3. Kinh tế gia đình
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ có liên quan để góp phần củng cố, ổn định và phát triển kinh tế gia đình; có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình cho các gia đình liệt sỹ, gia đình thương binh, gia đình bệnh binh, gia đình của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
a) Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế gia đình
Nhà nước có chính sách để gia đình phát triển kinh tế, chính sách khuyến khích đầu tư và xúc tiến thương mại, giải quyết thị trường, bảo hiểm rủi ro để ổn định và phát triển kinh tế gia đình. Khuyến khích gia đình khai thác và sử dụng đất có hiệu quả.
b) Thực hiện một số chính sách ưu tiên phát triển kinh tế gia đình
Ưu đãi về thuế để hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh các sản phẩm mới, sản phẩm sử dụng nguyên liệu tại chỗ, hỗ trợ các gia đình tham gia sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Tạo điều kiện để tăng cường khả năng và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; tích cực khai thác các nguồn vốn khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng phát triển kinh tế.
c) Tăng cường trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế
Cung cấp thông tin thị trường và chuyển giao kĩ thuật, khoa học công nghệ mới cho các gia đình. Mở rộng các hoạt động khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư, tiểu thủ công nghiệp. Khuyến khích phát triển thêm ngành nghề mới và sử dụng lực lượng được đào tạo về kỹ thuật, công nghệ để chuyển giao công nghệ cho các gia đình phát triển kinh tế. Tạo sự gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau giữa kinh tế hộ gia đình và kinh tế tập thể.
Các tổ chức nghề nghiệp có trách nhiệm tiếp nhận và cung cấp thông tin kinh tế cho các hộ gia đình, cung cấp kiến thức, kỹ thuật mới, đầu tư công nghệ mới, kinh nghiệm kinh doanh, kiến thức pháp luật, quản lý cho các thành viên trong gia đình.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong các trường phổ thông, các trường dạy nghề. Mở các lớp đào tạo nghề và quản lý kinh tế cho thanh niên trước khi bước vào tuổi lao động phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng nhóm dân cư. Khuyến khích tư nhân tham gia hướng nghiệp và đào tạo nghề .
d) Lồng ghép các chương trình và đẩy mạnh sự hợp tác để phát triển kinh tế gia đình
Lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình, chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để giảm nhanh tỷ lệ các hộ nghèo và tăng các hộ giàu, hộ khá.
Khuyến khích các hình thức gia đình hỗ trợ nhau sản xuất, kinh doanh trong các hội nghề nghiệp, câu lạc bộ, các hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng giữa gia đình với doanh nghiệp, với các tổ chức cung cấp thông tin, dịch vụ khoa học - công nghệ, các nhà cung ứng, phân phối, thu mua sản phẩm; hỗ trợ gia đình chuyển dịch cơ cấu, sáng tạo sản phẩm mới, dịch vụ mới và tìm kiếm thị trường. Tạo sự gắn kết giữa kinh tế gia đình và kinh tế tập thể.
4. Mạng lưới dịch vụ gia đình và cộng đồng
Xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ gia đình và cộng đồng; tạo điều kiện cho mọi gia đình tiếp cận được kiến thức pháp luật, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật và phúc lợi xã hội.
a) Xây dựng, củng cố và nâng cao hệ thống dịch vụ tư vấn về gia đình
Tiếp tục hoàn thiện chất lượng hoạt động của các trung tâm tư vấn hiện có; nâng cao chất lượng của các tổ hoà giải tại cộng đồng; hình thành các loại hình dịch vụ tư vấn phù hợp.
Xây dựng hoàn thiện các trung tâm tư vấn về pháp luật, hôn nhân và gia đình, y tế, văn hoá, giáo dục, phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các khu dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình.
b) Xây dựng và phát triển các loại hình dịch vụ gia đình
Xây dựng một số loại hình dịch vụ gia đình và cộng đồng như giáo dục gia đình, chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, dịch vụ khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ và các loại dịch vụ phục vụ sinh hoạt gia đình, cứu trợ nạn nhân của bạo lực trong gia đình.
Củng cố và nâng cao hệ thống các trường mầm non, quan tâm các loại hình bán công và tư thục, xây dựng và thực hiện các mô hình chăm sóc người tàn tật hoặc người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Củng cố và hoàn thiện hệ thống các Nhà văn hoá ở các địa phương; chú ý thường xuyên đưa các nội dung hoạt động của Nhà văn hoá gắn với các nội dung tuyên truyền, giáo dục về gia đình.
5. Thực hiện chính sách ưu đãi, ưu tiên và trợ giúp xã hội cho gia đình
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các gia đình liệt sỹ, gia đình thương binh, gia đình bệnh binh.
Thực hiện chính sách ưu tiên đối với các gia đình thuộc dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa.
Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với các gia đình gặp rủi ro, thiên tai, gia đình neo đơn, gia đình người tàn tật, gia đình nghèo.
6. Nghiên cứu khoa học và đào tạo
Kế thừa và đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về gia đình, nhằm bảo đảm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc tham mưu hoạch định chính sách về gia đình. Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình.
a) Kế thừa và đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về gia đình
Tập hợp, đánh giá các công trình nghiên cứu, điều tra, khảo sát, xây dựng chương trình nghiên cứu dài hạn và ngắn hạn về lĩnh vực gia đình. Xúc tiến các nghiên cứu tổng thể và từng lĩnh vực của gia đình. Ưu tiên các nghiên cứu ứng dụng nhằm đảm bảo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách, chương trình, kế hoạch để thực hiện chiến lược.
Từ nay đến năm 2010, ưu tiên nghiên cứu những chủ đề sau:
- Xây dựng chuẩn mực gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc.
- Xu hướng phát triển của gia đình Việt Nam theo thế hệ.
- Thực trạng và xu hướng hôn nhân, hệ quả của các xu hướng đó và những biện pháp tác động tích cực.
- Thực trạng và xu hướng thay đổi cấu trúc, chức năng của gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Nội dung, biện pháp giáo dục đời sống gia đình phù hợp với các đối tượng, các nhóm dân cư và vùng địa lý.
- Cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với gia đình nói chung và các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói riêng để phát huy năng lực tự củng cố và hoàn thiện của gia đình.
- Sự kết hợp giữa quản lý nhà nước, phối hợp của các tổ chức xã hội khác với vai trò tự quản của gia đình trong việc củng cố các quan hệ gia đình, thực hiện vai trò và các chức năng của gia đình.
- Phương pháp cân bằng giữa công việc và gia đình trong xã hội công nghiệp hoá và hiện đại hoá để giúp các thành viên gia đình vừa có điều kiện cống hiến cho xã hội vừa có điều kiện chăm sóc gia đình.
- Những vấn đề tổng thể về gia đình để đề xuất xây dựng những giải pháp phát triển gia đình trong giai đoạn tiếp theo.
b) Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình
Xây dựng và từng bước mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành về lĩnh vực gia đình theo phương châm thiết thực cả về nội dung và phương pháp, vừa đảm bảo phục vụ trực tiếp yêu cầu triển khai Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn trước mắt, vừa chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho tương lai.
Xây dựng chương trình, nội dung và giáo trình đào tạo; tổ chức việc đào tạo quản lý Nhà nước về gia đình cho đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số, Gia đình và Trẻ em; đào tạo và xây dựng đội ngũ giảng viên các cấp về gia đình; chú trọng việc đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo về gia đình với các hình thức chính quy, không chính quy, trong và ngoài nước; có đề án xây dựng Trường cán bộ Dân số, Gia đình và Trẻ em.
Đào tạo đội ngũ làm công tác truyền thông đại chúng có kỹ năng, xây dựng nội dung các thông điệp về lĩnh vực gia đình.
Đào tạo và hình thành đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp làm công tác tư vấn giỏi về gia đình và đội ngũ giáo dục viên tiền hôn nhân cho các trung tâm tư vấn dân số, gia đình và trẻ em, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các gia đình.
7. Hợp tác quốc tế
Tăng cường và mở rộng hợp tác đa phương và song phương để trao đổi kinh nghiệm và tranh thủ vận động nguồn lực hỗ trợ thực hiện công tác gia đình.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và thế giới nhằm học tập và chia sẻ kinh nghiệm quản lý nhà nước về gia đình. Tăng cường và mở rộng sự hợp tác với Chính phủ các nước, các tổ chức của Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, đặc biệt là các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và các nước trong khuôn khổ hợp tác á-Âu (ASEM). Hình thành và mở rộng diễn đàn khu vực về gia đình nhằm tạo khuôn khổ cho việc chia sẻ kinh nghiệm về lĩnh vực gia đình giữa các nước trong khu vực.
Củng cố và tăng cường sự hợp tác với Chính phủ các nước, các tổ chức của Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài nhằm nâng cao năng lực gia đình Việt Nam. Phụ nữ và trẻ em là các đối tượng được ưu tiên trong việc vận động các nguồn lực hỗ trợ cho các gia đình Việt Nam.
8. Các đề án của chiến lược
1. Đề án tuyên truyền, giáo dục chuyển đổi hành vi giai đoạn 2005-2010.
2. Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình giai đoạn 2005-2010.
3 Đề án nghiên cứu những vấn đề tổng thể về gia đình để đề xuất xây dựng mô hình gia đình và giải pháp phát triển gia đình trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
4. Đề án phát triển dịch vụ gia đình và cộng đồng giai đoạn 2005-2010.
5. Đề án phòng, chống bạo lực trong gia đình; phòng, chống sự xâm nhập của tệ nạn xã hội vào gia đình giai đoạn 2005-2010.
6. Đề án nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình giai đoạn 2005-2010.
Trên cơ sở các đề án đã được xác định, tiến hành xây dựng các dự án, kế hoạch hàng năm nhằm thực hiện các mục tiêu của Chiến lược.
GIẢI PHÁP 2: Tăng cường xây dựng, hoàn thiện pháp luật, chính sách và hệ thống dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình
Tăng cường xây dựng, hoàn thiện pháp luật, chính sách liên quan đến gia đình

Pháp luật đảm bảo sự phát triển của gia đình ở Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện


1. Pháp luật đảm bảo sự phát triển gia đình hiện nay ở Việt Nam
Thể chế hóa các đường lối chủ trương của Đảng về sự ổn định và phát triển gia đình, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý cho gia đình phát triển.
a. Hiến pháp năm 1992: Đây là đạo luật cơ bản nhất của nước ta và dựa trên các quy định của Hiến pháp, Nhà nước ban hành các đạo luật khác. Điều 64 Hiến pháp 1992 khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội; Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện và tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà cha mẹ”. Hiến pháp năm 1992 có nhiều quy định để bảo hộ và tạo điều kiện để cho các thành viên trong gia đình phát triển như: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” (Điều 65) hoặc “Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển sức lực trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức…” (Điều 66).
Trong gia đình, người phụ nữ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc phát triển kinh tế. Vì vậy Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Công dân nam và nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia đình; nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ …” (Điều 63).
b. Luật Hôn nhân gia đình: Để đảm bảo sự phát triển của gia đình, sau khi hòa bình lập lại, Đảng và Nhà nước đã sớm ban hành Luật Hôn nhân gia đình (năm 1959). Khi cả nước bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta tiếp tục ban hành Luật Hôn nhân gia đình năm 1986. Sau 15 năm tiến hành đổi mới, Quốc hội lại ban hành Luật Hôn nhân gia đình năm 2000. Các đạo luật hôn nhân gia đình qua các thời kỳ là cơ sở pháp lý để đảm bảo cho gia đình phát triển. Trong Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 đã có nhiều chế định pháp lý nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc và tiến bộ, như chế định kết hôn, chế định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con cái, giữa các thành viên trong gia đình. Có thể nói, 110 điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là cơ sở pháp lý để đảm bảo sự ổn định, xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong những năm đổi mới.
c. Các văn bản pháp luật đất đai: Đất đai là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế gia đình. Điều 113 Luật Đất đai năm 2003 cho phép hộ gia đình sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê quyền sử dụng đất. Những quy định này sẽ cho phép các hộ gia đình sử dụng đất phù hợp với hoàn cảnh của gia đình mình, hoặc hộ gia đình sử dụng đất có thể thế chấp quyền sử dụng đất đai tại các cơ quan, tín dụng ngân hàng để vay vốn thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, hoặc hộ gia đình có thể góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất kinh doanh. Một điểm mới mà Luật Đất đai đã đề cập là hộ gia đình có quyền được tặng quyền sử dụng đất. Các điều kiện này đã tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của hộ gia đình. Ngoài ra, hộ gia đình sử dụng đất còn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất, được giúp đỡ trong việc cải tạo đất; được Nhà nước bảo vệ khi có người xâm phạm tới quyền sử dụng đất hợp pháp của mình… (Điều 105).
Có thể nói rằng, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế hộ gia đình trên mọi miền đất nước. Kinh tế hộ gia đình đang từng bước khởi sắc.
d. Các văn bản pháp luật dân sự: Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã có nhiều điều khoản góp phần vào việc đảm bảo cho sự phát triển của gia đình. Điều 116 của Bộ luật nêu khái niệm hộ gia đình và khẳng định hộ gia đình là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, quy định người đại diện hộ gia đình khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự là chủ hộ, chủ hộ có thể ủy quyền cho người khác, những việc do đại diện hộ gia đình giao dịch thì tất cả các thành viên trong hộ đều phải chịu trách nhiệm (Điều 117). Luật cũng khẳng định tài sản của hộ gia đình chính là tài sản của tất cả các thành viên tạo lập nên, kể cả quyền sử dụng đất được xem là tài sản chung của hộ.
Các quy định của Bộ luật Dân sự đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình thực hiện các giao dịch dân sự để phát triển kinh tế hộ gia đình.
đ. Pháp luật Phòng chống bạo lực gia đình: Để bảo vệ sự phát triển bền vững của gia đình, ngày 21/11/2007 Quốc hội đã thông qua Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Luật có 6 Chương, 46 Điều và có hiệu lực từ ngày 1/7/2008. Sự ra đời của Luật Phòng chống bạo lực gia đình cho thấy sự phát triển vượt bậc của pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình ở Việt Nam hiện nay. Luật quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình, nguyên tắc phòng chống bạo lực gia đình, các quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình, như cung cấp ngân sách về phòng chống bạo lực gia đình; quy định trách nhiệm của các tổ chức cá nhân cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình. Luật Phòng chống bạo lực gia đình đã dành cả Chương II để quy định vấn đề phòng chống bạo lực gia đình, như thông tin tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình, hòa giải mâu thuẫn các tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình. Luật cũng đã quy định cụ thể việc bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia đình, như báo tin về bạo lực gia đình, sử dụng các biện pháp ngăn chặn về bạo lực gia đình, cấm tiếp xúc nạn nhân bị hành vi bạo lực gia đình v.v... Đặc biệt, Chương V Luật Phòng chống bạo lực gia đình đã quy định các hình thức xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, như xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc áp dụng các biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục v.v..
Có thể nói với nhiều quy định cụ thể, Luật Phòng chống bạo lực gia đình là văn bản quan trọng đảm bảo sự phát triển của gia đình ở Việt Nam.
e. Pháp luật bình đẳng giới: Bên cạnh Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Quốc hội cũng đã thông qua Luật Bình đẳng giới vào ngày 29/11/2006 và có hiệu lực vào ngày 1/7/2007. Luật có 6 Chương, 44 Điều, đã khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; các biện pháp bảo đảm sự bình đẳng giới; quy định trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong việc bảo đảm bình đẳng giới. Luật còn quy định cụ thể các biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật bình đẳng giới, như xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể nói, Luật Bình đẳng giới đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển gia đình ở Việt Nam hiện nay.
g. Các văn bản pháp luật khác: Ngoài các văn bản pháp luật nêu trên, Nhà nước còn có nhiều văn bản pháp luật khác đề cập đến việc bảo vệ và phát triển gia đình. Chẳng hạn, Bộ luật Hình sự năm 1999 dành một chương về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Các điều luật trong chương này có tác dụng rất lớn trong việc giữ vững sự ổn định của gia đình, bảo vệ gia đình, giữ gìn được truyền thống gia đình Việt Nam; ngăn chặn có hiệu quả các hành vi xâm phạm tới sự phát triển của gia đình.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, kinh tế hộ gia đình đang từng bước phát triển. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP về một số chủ trương chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Để xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm ở nông thôn, Chính phủ đã xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình 135 làm cho đời sống của các hộ gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi được cải thiện đáng kể.
Không chỉ là phát triển kinh tế mà vấn đề văn hóa của gia đình cũng đã được chú trọng. Ngày 19/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/CT-TTg về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư nhằm xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, xây dựng các quy tắc đạo đức, giúp đỡ nhau giải quyết tốt các quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Để đảm bảo sự ổn định dân số nhằm phát triển xã hội và gia đình bền vững, ngày 9/1/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Dân số và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 104/CP ngày 16/9/2003 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Dân số. Điều 17 Pháp lệnh Dân số đã quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 đến 2 con. Quy định này đã góp phần rất lớn vào việc bảo đảm sự ổn định dân số và phát triển của gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Có thể nói, trong hơn 20 năm đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trên tất cả lĩnh vực kinh tế, dân sự, hình sự, hôn nhân, gia đình văn hóa, xã hội... để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của gia đình ở Việt Nam.
h. Một số điểm hạn chế của pháp luật đảm bảo phát triển của gia đình:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình cũng còn những hạn chế nhất định. Chẳng hạn các quy định của pháp luật hiện nay đang nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nên việc vận dụng rất khó khăn, bởi khi vận dụng phải tra cứu nhiều văn bản. Một số quy định trong luật còn rất chung chung, vì vậy việc áp dụng không tránh khỏi hạn chế. Chẳng hạn Luật Đất đai năm 2003, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình đều có quy định giống nhau: Người nào vi phạm thì bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự...
Một số quy định trong các đạo luật còn thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết nên việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập. Một số quy định chưa thật phù hợp với thực tế, một số quy định ban hành từ rất lâu, đã lạc hậu, nhưng vẫn nghiễm nhiên tồn tại. Một số quy định bị trùng lặp, chồng chéo, như Luật đã ban hành, nhưng Nghị định vẫn còn nhắc lại...
Hiện nay, trong xã hội đã xuất hiện một số hành vi như hành vi lấn chiếm đất đai gây thiệt hại lớn về tài sản của hộ gia đình và người sử dụng đất hợp pháp, gây phiền hà cho những gia đình, cá nhân chấp hành nghiêm pháp luật phải đi khiếu kiện nhiều nơi, làm mất thời gian và tốn kém tiền của, nhưng pháp luật chưa có các quy định đủ mạnh để răn đe những hành vi này, mà chỉ giải quyết bằng biện pháp dân sự, vì vậy những hành vi này vẫn tiếp tục tái diễn trên mọi miền của đất nước. Hoặc một số hành vi bạo lực gia đình, một số hành vi bóc lột sức lao động của trẻ em, đối xử tàn nhẫn với trẻ em... đã diễn ra trong xã hội, được báo chí và dư luận lên án nhưng pháp luật vẫn chưa có các quy định mang tính cưỡng chế mạnh mẽ để răn đe. Đặc biệt, một số đạo luật khi ban hành không quy định luôn chế tài xử lý cụ thể, nên Luật ban hành rồi nhưng phải chờ nghị định, hoặc phải chờ sửa đổi Bộ luật Hình sự mới xử lý được hành vi vi phạm pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình.
Có thể nói, một số điều hạn chế nêu trên của pháp luật đã có những ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển bền vững của gia đình, một nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của cả xã hội.
2. Hoàn thiện các quy định pháp luật đảm bảo sự phát triển gia đình
Xuất phát từ thực tiễn hiện nay ở nước ta còn không ít hộ gia đình nghèo, hộ gia đình khó khăn, khả năng phát triển rất hạn chế và thực trạng pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình còn bất cập, nên phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật đảm bảo cho sự phát triển của gia đình. Để làm tốt vấn đề này, cần tiến hành một số giải pháp sau:
Thứ nhất, trước hết cần rà soát các văn bản pháp luật hiện hành rồi cắt bỏ những quy định lạc hậu, những quy định không phù hợp cho sự phát triển của gia đình, sửa đổi, điều chỉnh các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo và bổ sung một số quy phạm pháp luật mới nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình. Đặc biệt, phải giao trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức có thẩm quyền hệ thống hóa các quy phạm pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình. Cần thiết phải tập hợp các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này thành một tập “Hệ thống hóa các văn bản pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình”. Có như vậy mới tạo sự thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm sự phát triển của gia đình.
Thứ hai, Quốc hội nên nghiên cứu xây dựng, ban hành những văn bản pháp luật về gia đình đầy đủ, chặt chẽ, cụ thể nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự ổn định và phát triển của gia đình. Các quy định về phát triển gia đình trong các luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ cần được hướng dẫn cụ thể, tạo thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh tế, dân sự, đất đai, tiền vốn, văn hóa xã hội... để đảm bảo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của gia đình, cụ thể là:
- Cần ban hành các quy định pháp lý về chuẩn mực gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững để làm mục tiêu phấn đấu cho các gia đình cũng như toàn xã hội.
- Nhà nước nên ban hành những quy định pháp lý cụ thể về đất đai, tiền vốn, lao động, học tập... cho các gia đình và thành viên gia đình khó khăn; hoặc đặc biệt khó khăn, nghèo đói, các gia đình ở vùng sâu, vùng xa và tổ chức thực hiện tốt các quy định đó để cho các gia đình đó có thể phát triển vươn lên theo kịp các gia đình khác.
- Trong luật dân sự, cần bổ sung thêm quy định về quyền sử dụng nhà ở thuê của Nhà nước như là một quyền tài sản để bảo vệ các quyền lợi của các thành viên trong gia đình khi ở thuê nhà của Nhà nước. Tạo thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng nhà ở thuê của Nhà nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững sự ổn định và phát triển gia đình.
- Trong lĩnh vực đất đai cần phải có những quy định pháp lý chặt chẽ hơn về hạn mức sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp của các hộ gia đình và có biện pháp thực hiện triệt để các quy định này để tránh tình trạng một số hộ gia đình tích tụ quá lớn diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp rồi lại cho thuê lại, hoặc đầu cơ, mua đi bán lại làm giàu bất chính, còn một số hộ gia đình lại quá nghèo hoặc bị bần cùng vì thiếu đất để sản xuất. Đối với các hành vi lấn chiếm đất đai, gây thiệt hại nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các hộ gia đình và cá nhân thì cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự để ngăn chặn răn đe. Vì vậy, Nhà nước nên bổ sung các quy định pháp luật hình sự để làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý những hành vi này. Có như vậy mới bảo vệ và đảm bảo sự phát triển bền vững của các gia đình Việt Nam.
- Hiện nay có một số hộ gia đình không chấp hành đúng các quy định pháp lý về dân số - kế hoạch hóa gia đình như sinh con thứ ba, thậm chí là sinh con thứ tư, thứ năm. Vì vậy, Nhà nước cần ban hành các quy định pháp lý chặt chẽ, cụ thể để xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật dân số.
Thứ tư, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự để răn đe, xử lý đối với những hành vi bạo lực gia đình, hành vi bóc lột sức lao động trẻ em, hành vi vi phạm nghiêm trọng về bình đẳng giới... Có như vậy mới bảo vệ được phụ nữ và trẻ em - những thành viên quan trọng trong gia đình Việt Nam hiện nay.







Thứ năm, Nhà nước nên ban hành các chế tài cụ thể đủ mạnh để xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật bảo đảm phát triển của gia đình ngay sau khi ban hành các đạo luật, kể cả chế tài hình sự, có như vậy mới nâng cao tính răn đe của pháp luật. Tránh để tình trạng luật ban hành phải chờ nghị định hướng dẫn hoặc phải chờ sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự thì mới xử lý được những hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm sự phát triển của gia đình mới phát sinh trong xã hội.
TS. Nguyễn Cảnh Quý - Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. TC. NCLP

VÍ DỤ
Năm 2005, Hàn Quốc bãi bỏ luật đăng ký gia đình với chủ hộ là nam giới. Đây được coi là một bước tiến của phong trào phụ nữ ở Hàn Quốc.
Về mặt luật pháp cũng đạt được các thành tựu lớn trong lĩnh vực thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ:






1999: Luật Hỗ trợ các Doanh nhân nữ ra đời
2000: Luật cấm hành vi phân biệt về giới
2001: Luật chăm sóc trẻ em (điều chỉnh năm 2005)
2001: Xem xét điều chỉnh Luật bình đẳng giới
2001: Luật Hỗ trợ Phụ nữ trong ngành nông nghiệp và ngư nghiệp
2002: Luật Hỗ trợ Phụ nữ trong ngành Khoa học ra đời
2004: Luật trừng phạt tội mại dâm
2005: Bãi bỏ Luật về hệ thống người đứng đầu trong gia đình
Các cơ chế về thể chế chịu trách nhiệm về giới
- Bộ các vấn đề chính trị (1988 - 1998)
- Tiểu ban đặc biệt về phụ nữ tại Quốc hội (1994)
- Ủy ban của Tổng thống về các vấn đề Phụ nữ và bình đẳng giới ở Hàn Quốc (1998 - 2001): Ủy ban này có các nhiệm vụ sau:
(1) Lên kế hoạch tổng thể và điều phổi các chính sách về phụ nữ và giám sát việc thực hiện các chính sách này
(2) Ủy ban 15 thành viên bao gồm các thứ trưởng từ sáu bộ và 7 thành viên từ các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan hàn lâm
(3) Thành lập sáu phòng chính sách phụ nữ ở 6 bộ (Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Bộ Giáo dục, Bộ Y tế và Phúc lợi, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nông Lâm nghiệp)
(4) Thành lập các văn phòng về phụ nữ tại các chính quyền địa phương
Bộ Bình đẳng Giới thành lập năm 2001:
- Xây dựng và thực hiên các chính sách về giới
- Xây dựng, điều phối, và hỗ trợ các chính sách về gia đình
- Lên kế hoạch và thực hiện các chính sách về bảo về trẻ em
- Phân tích và đánh giá các chính sách nhậy cảm về giới
Các chính sách trên đạt được đều có sự đóng góp mạnh mẽ của các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ, và các phong trào về giới và phụ nữ. Các tổ chức này đóng vai trò như các đối tác chính của chính phủ để phát triển các chính sách về giới. Có thể nhận thấy các chính sách về giới và phụ nữ của Hàn Quốc có sự thay đổi từ việc các chính sách mang tính ứng phó, bị động sang các chính sách chủ động mang tính hỗ trợ, thúc đẩy và tham gia.
Hiện nay Hàn Quốc đối mặt với thách thức lớn là tỷ lệ sinh đẻ giảm thấp. Nếu những năm 70, tỷ lệ sinh đẻ từ 3.5 - 4.5% thì năm 2005, chỉ còn 1.08% (theo số liệu thống kê của Hàn quốc).
Về công tác nữ hiện nay có sự phân công cụ thể về vấn đề giới và phụ nữ trong các bộ như sau:
• Bộ Lao động: Cải tiến công tác tuyển chọn, phân công, và thăng tiến về mặt giới - Ngăn chặn việc bạo hành trong các nơi làm việc
• Văn phòng chính phủ: Thực hiện công tác tuyển chọn cán bộ nữ làm việc trong hệ thống hành chính công theo bắt buộc.
• Bộ Giáo dục: Nâng cao năng lực chuyên môn cho phụ nữ
• Bộ Lao động: Nâng cao năng lực cho lực lượng lao động nữ khi quay lại làm việc
• Bộ Ngân sách và Kế hoạch: Nâng cao hệ thống chăm sóc trẻ em
• Bộ Y tế và Phúc lợi: Hỗ trợ phụ nữ chưa có việc làm
• Cục thống kê: Điều tra thống kê về phụ nữ chưa có việc làm, hoặc làm việc dưới khả năng
• Các cơ quan nghiên cứu và cung cấp thông tin số liệu cần thiết cho việc giám sát và đánh giá việc thực thi các chính sách phát triển, trong đó có các chính sách về giới và phụ nữ.
Các Viện Nghiên cứu của nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau:
-- Viện Phát triển Phụ nữ Hàn quốc, 1983: Chịu trách nhiêm nghiên cứu các vấn đề về phụ nữ, xây dựng các chính sách về phụ nữ và đánh giá ảnh hưởng của các chính sách, nghiên cứu định lượng và định tính về chính sách, xây dựng niên giám về phụ nữ.
-- Viện Phát triển Hàn Quốc
-- Viện Nghiên cứu Giáo dục Hàn Quốc
-- Viện Các vấn đề Sức khỏe và Xã hội Hàn quốc
-- Viện Hưu trí Hàn quốc
-- Cục thống kê quốc gia
Theo định kỳ, các khảo sát điều tra được tiến hành là:
- Khảo sát thống kê xã hội (hàng năm từ thập niên 70)
- Khảo sát thống kê về sinh đẻ và sức khỏe gia đình
- Khảo sát thống kê về tình trạng trẻ em
- Niên giám về giáo dục hàng năm
- Thống kê về chương trình đào tạo tại các cơ quan
- Niên giám lao động
- Các thống kê quan trọng
- Điểu tra khảo sát hàng năm về sức khỏe và phúc lợi
- Điều tra khảo sát về hưu trí và sức khỏe cộng đống
Các tổ chức phi chính phủ, các viên nghiên cứu, các trường đại học đều tham gia nghiên cứu, lấy ý kiến người dân và giúp đỡ hoạt động các nhóm phụ nữ ở các cấp khác nhau. Các tổ chức này cũng làm việc hợp tác với các tổ chức ở nước ngoài
Các chính sách phát triển của Hàn Quốc đều có các biện pháp đánh giá giám sát việc thực hiện các chính sách về giới và phụ nữ. Các cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện phải sử dụng các số liệu và thông tin về giới và phụ nữ Hàn Quốc cũng áp dụng bắt buộc có sự tham gia của phụ nữ vào quá trình xây dựng các chính sách liên quan có ảnh hưởng đến phụ nữ.
Trong công tác xây dựng chính sách về giới và phụ nữ ở Hàn Quốc, công tác đánh giá và giám sát thực hiện chính sách rất được coi trọng. Việc tiến hành các công tác này được làm chuyên nghiệp, theo kế hoạch, tỷ mỉ để phản ánh các lợi ích do các chính sách đem lại cho phụ nữ. Các kết quả được sử dụng cho việc xây dựng ngân sách cho công tác giới và phụ nữ và các chương trình tiếp theo



Xây dựng hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội bền vững
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người[1], mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô, phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của các nước có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm, chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.


Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và nâng cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân.
Ngay từ Đại hội lần thứ III, Đảng ta đã xác định “…Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị…”. Những năm sau đó, mặc dù trong điều kiện còn hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng.
Đến Đại hội IX của Đảng chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…”. Đại hội X của Đảng xác định “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”, “Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”[2].
10 năm qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện trên các lĩnh vực: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hoá, y tế và giáo dục. Cùng với nguồn lực không ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức thực hiện, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng được bảo đảm tốt hơn, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đặt trọng tâm vào công tác xoá đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo.
Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; (3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đến nay công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn khoảng 10% (năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm 1999) xuống còn 2 lần (năm 2008). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.


Đã tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm với nhiều chính sách trợ giúp thiết thực, hàng năm giải quyết được hơn 1,6 triệu việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị từ 6,42% (năm 2000) xuống còn khoảng 4,6% (năm 2010), tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần.


Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,4 triệu (năm 2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia.
Dự kiến đến hết năm 2010 có khoảng 5,8 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo,...


Các chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Mức trợ cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Năm 2010 ngân sách trung ương đã dành gần 19.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.

Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất được thực hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỷ đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010). Hàng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng (riêng năm 2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục nghìn tấn lương thực, chủ yếu là để trợ giúp khắc phục thiên tai. Từ đầu năm 2008, Chính phủ đã có nhiều chính sách và giải pháp kịp thời, thiết thực nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.


Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại… đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt được cải thiện và khả năng tiếp cận của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đến nay 100% số xã, phường đã có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã có bác sỹ; cả nước hiện có khoảng 23 triệu người đang theo học ở các cấp bậc học, đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; 82,5% số hộ nông thôn đã được sử dụng nước hợp vệ sinh; 96,1% số hộ đã được sử dụng điện lưới; 86,9% số hộ sử dụng máy thu hình; trên 97% số xã đã có đường ô tô đi tới trung tâm xã; khoảng 90% số xã có trạm bưu điện văn hoá…

Các phong trào “tương thân tương ái”, “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, các đơn vị và cá nhân chủ động thực hiện và hưởng ứng tham gia đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho mọi người, nhất là những người nghèo, vùng nghèo.


Tuy nhiên, việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội vẫn còn bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, số hộ cận nghèo còn nhiều, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, khoảng cách thu nhập của các tầng lớp dân cư còn lớn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hoá và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực cho an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn còn không ít tiêu cực, phiền hà.

Những yếu kém, bất cập trên đây trước hết là do công tác lãnh đạo, quản lý còn nhiều yếu kém, hiệu lực hiệu quả chưa cao, nhận thức về bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa đầy đủ. Chưa hình thành được hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội rộng khắp với những cơ chế chủ động tích cực, bền vững, làm chỗ dựa vững chắc cho người nghèo, hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo. Chưa huy động được mạnh mẽ sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.




Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội.
Đồng thời đề ra mục tiêu đến năm 2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3000 - 3200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư... Xoá nhà tạm đơn sơ, tỷ lệ nhà kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng/người. Cải thiện chất lượng môi trường, hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng.


Quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước cùng với tiềm lực kinh tế của đất nước được nâng lên là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: công cuộc xoá đói giảm nghèo phải tập trung vào các vùng, các đối tượng khó khăn nhất; một bộ phận không nhỏ lao động của cả nước chưa có nghề hoặc thiếu kỹ năng lao động, đang làm những công việc chưa thật ổn định với tiền lương, tiền công và bảo trợ xã hội thấp; những rủi ro về kinh tế, xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng tăng lên… tác động tiêu cực đến đời sống và an sinh xã hội của nhân dân. Chính vì vậy, cần có nhận thức mới, đầy đủ hơn về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, phát huy thành quả và những kinh nghiệm tốt đã đạt được, khắc phục những yếu kém bất cập để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đồng bộ, hiệu quả cao.


Thứ nhất, cần khẳng định bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước và là quyền lợi, trách nhiệm của toàn xã hội. Thông qua hệ thống các cơ chế chính sách và nguồn lực của mình, Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Nhà nước thực hiện tốt chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ kinh tế nhà nước để thực hiện chính sách cơ cấu nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm các yêu cầu cơ bản về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, coi việc thực hiện nhiệm vụ này là một nội dung quan trọng thể hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.






Thứ hai, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phải bảo đảm chủ động, tích cực và có tính xã hội hoá cao. Theo đó, cùng với tăng cường vai trò của Nhà nước, phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng; vừa trợ giúp kịp thời, hiệu quả trong việc bảo đảm mức sống tối thiểu của người dân, vừa góp phần quan trọng thúc đẩy xoá đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.


Thứ ba, xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đa tầng, linh hoạt, bền vững, có thể hỗ trợ lẫn nhau, công bằng về trách nhiệm và lợi ích, chia sẻ rủi ro, hướng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho những người nghèo, hộ nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận với thông lệ quốc tế.


Để thực hiện tốt các yêu cầu trên đây, hiện thực hoá các mục tiêu về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp sau:


1. Đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết việc làm.


Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội tích cực, hiệu quả, bền vững. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, một mặt phải hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn nông thôn; mặt khác phải tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm gắn với thực hiện đề án Đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020, chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả; phát triển mạnh thị trường lao động. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho cả người học và cơ sở dạy nghề, như cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên…; đẩy mạnh việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.


Phấn đấu hàng năm tuyển mới dạy nghề cho khoảng 1,8 triệu người, trong đó có 1 triệu lao động nông thôn; đến năm 2015 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4%; năm 2020 lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% trong tổng lao động xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm; chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài hoà, điều kiện và môi trường lao động an toàn.




2. Phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia.
Trong điều kiện có những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cùng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc phát triển hệ thống bảo hiểm và sự tham gia rộng rãi của người dân được coi là giải pháp quan trọng nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh tế, xã hội, môi trường. Cần khẩn trương hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm phát triển hệ thống bảo hiểm ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền vững, với chất lượng được nâng cao, phục vụ có hiệu quả các mục tiêu về an sinh, kinh tế và xã hội, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Hệ thống này được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng; có sự chia sẻ hợp lý về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có sự hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng tham gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách và bảo trợ xã hội… Phát triển mạnh cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới, gắn với điều chỉnh lương hưu và lộ trình cải cách tiền lương. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao động, trong đó có chính sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, lao động ở nông thôn tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và khám chữa bệnh. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người nghèo, người dân ở vùng khó khăn, người lao động trong các khu vực phi chính thức. Phấn đấu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014.


Khẩn trương nghiên cứu, thí điểm để mở rộng các hình thức bảo hiểm khác thích ứng với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sản xuất và bảo đảm đời sống.


3. Thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững.

Trong thập kỷ tới, xoá đói giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ bức thiết với quy mô rộng lớn, mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và là một trọng tâm trong công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta. Để thực hiện xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững, phải đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó trọng tâm là triển khai có hiệu quả Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020 với chuẩn nghèo mới phù hợp với tình hình phát triển của nước ta và tiếp cận với chuẩn quốc tế. Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, tiếp cận thị trường; nâng cao khả năng tự vươn lên thoát nghèo bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án và nguồn lực trên từng địa bàn; sự tham gia chủ động của người dân, cộng đồng và cơ sở.


Cùng với việc ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động sự trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, động viên người nghèo, vùng nghèo nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, tiến tới làm giàu. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo hiện có, nhất là chương trình giảm nghèo ở các huyện có số hộ nghèo cao.


Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, trong đó gắn phát triển kinh tế với xã hội và bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, phát triển nông thôn bền vững.


4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội.


Hiện nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người có công với nước đang hưởng chính sách trợ cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp đột xuất còn rất lớn do tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo, cận nghèo còn cao, đa số người già chưa được hưởng chế độ hưu trí, tác động của kinh tế thị trường, dịch bệnh, thiên tai gây thiệt hại ngày càng lớn[3]. Vì vậy, thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi người có công với nước và chính sách trợ giúp xã hội không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an sinh, ổn định xã hội, mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta.

Thấm nhuần đạo lý và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách và nâng cao chế độ ưu đãi đối với người có công, phù hợp với sự phát triển kinh tế; đồng thời hỗ trợ các gia đình người có công phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập; vận động toàn xã hội tham gia phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, bảo đảm cho những người có công có mức sống cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.


Hoàn thiện các chính sách và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó có hiệu quả với các biến cố, rủi ro, theo hướng cùng với việc tăng cường trợ giúp thường xuyên và đột xuất từ ngân sách nhà nước, phải đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng các kênh và hình thức trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo dựa vào cộng đồng với sự tham gia rộng lớn của các doanh nghiệp, của xã hội và kiều bào ta ở nước ngoài; tranh thủ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Tiếp tục mở rộng đối tượng và điều kiện hưởng thụ trợ giúp xã hội đến toàn bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương với mức trợ giúp phù hợp. Phấn đấu bảo đảm cho mọi người dân khi có thu nhập dưới mức sống tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã hội.

Đẩy mạnh việc chủ động phòng chống và ứng phó kịp thời có hiệu quả thiên tai, tác động của biến đổi khí hậu nhằm hạn chế thiệt hại về người và của, nhất là những vùng thường xuyên xảy ra bão lũ; nghiên cứu hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế trợ giúp tại các địa phương để hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột xuất.

5. Nhà nước tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản.


Không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, trước hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho mọi người. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và phân phối lại một bộ phận thu nhập quốc dân, nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các thành viên, các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội và các vùng miền. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thực hiện tốt yêu cầu này cũng là một biểu hiện thực tế và sinh động bản chất ưu việt của chế độ ta.


Trong thời gian tới, việc bảo đảm phúc lợi xã hội gắn với đẩy mạnh phát triển các dịch vụ xã hội phải vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, văn hoá, thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân đối với các dịch vụ này. Cần đẩy mạnh phát triển các quỹ phúc lợi xã hội ở cả 3 cấp độ: quỹ tập trung của Nhà nước; quỹ của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh; quỹ của các tập thể và cộng đồng. Phát triển hệ thống dịch vụ ngày càng đa dạng, đồng bộ, mở rộng độ bao phủ, với chất lượng ngày càng nâng lên. Quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hưởng các phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ bản tối thiểu của người dân; đồng thời phải khắc phục các tiêu cực, phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ này; có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng khó khăn.

Xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, đặc biệt khó khăn; đồng thời hoàn thiện các chính sách về miễn giảm học phí, học bổng, tín dụng ưu đãi cho người học, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi; chính sách khám, chữa bệnh, thụ hưởng văn hoá, thông tin, trợ giúp pháp lý; chính sách nhà ở… cho các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn. Đặc biệt, phải quan tâm làm tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em để con em chúng ta phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá, ấm no, hạnh phúc.


6. Huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.


An sinh xã hội và phúc lợi xã hội có bản chất xã hội sâu sắc gắn kết hữu cơ giữa quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người với mỗi đơn vị, cộng đồng và toàn xã hội. Cùng với việc nâng cao vai trò, chức năng và tăng thêm nguồn lực của Nhà nước, phải thực hiện chủ trương “các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá”[4]. Phải huy động các nguồn lực của toàn xã hội để nâng cao an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.


Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng sự tham gia của mọi chủ thể vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ công cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Khuyến khích phát triển các mô hình an sinh xã hội tự nguyện ở cộng đồng, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng theo cơ chế phi lợi nhuận và các hình thức hợp tác công - tư. Đẩy mạnh các cuộc vận động xã hội như: ngày vì người nghèo, phong trào tương thân tương ái, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết dân tộc...
Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước ta. Đây cũng là một yêu cầu bức thiết của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Với nhận thức mới và quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, bằng sự lãnh đạo sáng tạo của cấp uỷ đảng, sự quản lý chỉ đạo có hiệu lực hiệu quả của chính quyền các cấp, sự tham gia sâu rộng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và toàn xã hội, nhất định chúng ta sẽ thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trong giai đoạn chiến lược tới./.


[1] Được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua năm 1948, Điều 25 “Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khoẻ và các phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, goá phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác”.
[2] Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá X).

[3] Bình quân 5 năm gần đây, mỗi năm thiên tai làm chết hơn 500 người, gây thiệt hại về tài sản khoảng 15 nghìn tỷ đồng, bằng 1,2% GDP.
[4] Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam.

GIẢI PHÁP 3: Tăng cường công tác nghiên cứu khảo sát về gia đình
- Cần phải thống kê, hệ thống hoá các chính sách về gia đình xem những chính sách nào đã lạc hậu thì loại bỏ, những chính sách nào còn thiếu thì bổ sung; những chính sách nào trùng lặp thì bỏ bớt.
- Thực hiện quản lý, điều hành công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình theo chương trình mục tiêu quốc gia, tiếp tục áp dụng cơ chế phân cấp và phối hợp liên ngành đã khẳng định được hiệu quả cao trong thời gian qua, đồng thời nghiên cứu và áp dụng các cơ chế mới phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.
Thực hiện việc đăng ký dân số, xử lý và cung cấp thông tin, dữ liệu về dân số đầy đủ, chính xác, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành chương trình, đồng thời phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch, hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội. (Nghị quyết số 47-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình)
- Tăng cường công tác nghiên cứu, điều tra, khảo sát toàn diện về gia đình, đặc biệt là nghiên cứu các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nghiên cứu xây dựng các mô hình gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phối hợp với Mặt trận, Đoàn thanh niên, Phụ nữ, Hội nông dân nhân rộng các điển hình về gia đình hiếu học, con hiếu thảo, dự báo những biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới, đề xuất các biện pháp và chính sách về xây dựng gia đình trong thời kỳ mới