Biên giới Việt Nam- Campuchia

Dây là biên giới Việt Nam-Campuchia ở Đồng Tháp

Nguyễn văn Tiến

Đại học Luật Tp.HCM

Hình đi hội thảo ở Nha trang

Tôi đang ngồi giữa một bên là một bên là biển và một bên là trường đại học Nha trang

đồng tháp quê hương miền Tây

mời bạn cùng uống cà phê với chúng tôi

Hình kỷ niệm 15 năm thành lập ĐH Luật TPHCM

Mời bạn tham khảo một thoáng về gian hàng trưng bày của khoa Luật Dân sự

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012

HÌNH VỀ QUE 9-2012

ĐẠO LUẬT HÔN ƯỚC HOA KỲ

ĐẠO LUẬT THỐNG NHẤT VỀ HÔN ƯỚC CỦA HOA KỲ Posted on 24/06/2010 by Civillawinfor Bản dịch của PHẠM LINH NHÂM – Sinh viên Khóa 31, Đại học Luật Hà Nội Điều 1. Định nghĩa Trong đạo luật này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: (1) “Hôn ước” là thỏa thuận giữa hai người sắp kết hôn được lập ra trong thời gian trước khi kết hôn và phát sinh hiệu lực trong thời kì hôn nhân. (2) “Tài sản” là khoản lợi ích, ở hiện tại hay trong tương lai, hợp pháp hoặc hợp lệ, tài sản riêng hay nằm trong tài sản chung với người khác, bất động sản hay tài sản của cá nhân, bao gồm cả thu nhập do lao động và các khoản thu nhập khác. Điều 2. Hình thức Hôn ước phải được làm bằng văn bản và được hai bên kí vào. Hôn ước có thể có hiệu lực thi hành mà không cần có thêm bất cứ một sự xem xét nào khác. Điều 3. Nội dung (a) Các bên tham gia lập hôn ước có thể thỏa thuận những nội dung sau: (1) Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đổi với tài sản của một bên hoặc cả hai bên ở bất kì thời điểm hay địa điểm nào do các bên sẵn có hoặc thu nhập được; (2) Quyền mua bán, sử dụng, chuyển nhượng, trao đổi, từ bỏ, cho thuê, tiêu dùng, dùng làm tài sản bảo đảm, thế chấp, cầm cố, tự định đoạt hay các quyền quản lí, kiểm soát khác đối với tài sản; (3) Định đoạt tài sản khi li thân, li hôn, khi qua đời, hoặc khi xảy ra bất kì sự biến nào khác ; (4) Sự thay đổi hay chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng; (5) Lập chúc thư, uỷ thác, hay các biện pháp khác để thực hiện các nội dung của hôn ước; (6) Quyền sở hữu và tuỳ ý sử dụng tiền bảo hiểm có được từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của một người; (7) Vấn đề lựa chọn luật điều chỉnh đối với hôn ước và; (8) Bất kì các vấn đề khác bao gồm quyền và nghĩa vụ cá nhân nhưng không được trái với chính sách công và vi phạm pháp luật; (b) Quyền được chu cấp của con cái không thể bị ảnh hưởng theo chiều hướng bất lợi bởi những nội dung trong hôn ước. Điều 4. Hiệu lực Hôn ước bắt đầu có hiệu lực khi kết hôn. Điều 5. Sửa đổi, hủy bỏ Sau khi kết hôn, hôn ước có thể được sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi một văn bản được kí bởi cả hai vợ chồng. Thỏa thuận sửa đổi này sẽ có hiệu lực thi hành mà không cần một sự xem xét nào thêm. Điều 6. Thi hành (a) Hôn ước sẽ không được thi hành nếu bên chống lại việc thi hành đã chứng minh được rằng: (1) Một bên đã không tự nguyện thực hiện hôn ước; hoặc (2) Hôn ước không hợp lí trước khi nó được thực hiện và trước khi thực hiện hôn ước, một bên (i) Đã không được cung cấp thông tin một cách công bằng và hợp lí về tài sản và các nghĩa vụ tài chính của bên kia; (ii) Đã không tự nguyện từ bỏ một cách rõ ràng bằng văn bản bất cứ quyền được cung cấp thông tin về tài sản và các nghĩa vụ tài chính của bên kia ngoại trừ thông tin đã được cung cấp; và (iii) Đã không biết, hoặc đã không thể biết được một cách đầy đủ về tình trạng tài sản hoặc các nghĩa vụ tài chính của bên kia. (b) Nếu có qui định của hôn ước về thay đổi hoặc chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng và việc thay đổi hoặc chấm dứt đó khiến một bên trong hôn ước này có đủ điều kiện được hưởng cấp dưỡng theo một chương trình hỗ trợ công nào đó tại thời điểm li thân hoặc li hôn thì tòa án có thể yêu cầu bên kia thực hiện việc cấp dưỡng ở một mức độ cần thiết để có thể tránh được trường hợp các bên cố tình thỏa thuận về việc thay đổi hay chấm dứt điều kiện cấp dưỡng để đủ điều kiện hưởng cấp dưỡng theo chương trình hỗ trợ. (c) Tính không hợp lí của hôn ước sẽ theo phán quyết của tòa án. Điều 7. Thi hành khi hôn nhân vô hiệu Nếu việc kết hôn bị tuyên vô hiệu thì hôn ước chỉ được thi hành trong một phạm vi cần thiết để đảm bảo cho một hệ quả bất công không xảy ra. Điều 8. Giới hạn của hành vi Bất cứ qui định hạn chế nào áp dụng đối với hành động đòi cấp dưỡng theo hôn ước của các bên đều bị ngăn cản trong thời kì hôn nhân. Tuy nhiên, các bên có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ hợp lí nhằm hạn chế thời gian thi hành cho bên kia bao gồm trì hoãn và estoppel. Điều 9. Áp dụng và giải thích từ ngữ Luật này được áp dụng và giải thích để thực hiện với mục đích chung là áp dụng thống nhất giữa các tiểu bang. Điều 10. Tên của đạo luật Tên của đạo luật là đạo luật thống nhất về hôn ước Điều 11. Hiệu lực từng phần Nếu có bất cứ điều khoản nào của đạo luật này hoặc việc áp dụng đạo luật này đối với bất cứ người nào hoặc trường hợp nào bị vô hiệu thì sự vô hiệu đó sẽ không ảnh hưởng tới các điều khoản hoặc các áp dụng khác của đạo luật này. ĐIỀU 12: THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC ĐIỀU 13: HỦY BỎ. Các đạo luật và các phần của đạo luật sau đây sẽ bị hủy bỏ

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

BÀI TẬP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 9-2012

ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ Năm 2004, bà H. nộp đơn kiện đòi ông bà L. trả gần 90 m2 đất ở quận 8, TP.HCM. Bấy giờ, phía bị đơn cho rằng vào năm 2000, nguyên đơn đã lăn tay vào “bản cam kết ưng thuận” và “bản xác nhận tái sử dụng đất” (có xác nhận của UBND phường) để đồng ý cho họ được sử dụng và hợp thức hóa phần đất trên. Phản đối, nguyên đơn bảo mình không lăn tay vào giấy tờ nào cả. Năm 1988, bà chỉ cho bị đơn cất một căn chòi nhỏ để ở trên 20 m2 đất. Sau đó, bị đơn đã dần dần lấn thêm và mở rộng diện tích lên gần 90 m2, lại còn tự ý đi hợp thức hóa nhà. Do bà H. phủ nhận dấu vân tay nên để giải quyết vụ án, TAND quận 8 đã quyết định trưng cầu giám định dấu vân tay trong hai văn bản này. Tháng 11-2004, Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận điểm chỉ trong hai văn bản này “bị mờ nhòe, không xác định được dạng chung nên không đủ yếu tố giám định”. TAND quận 8 quyết định trưng cầu giám định lại. Tháng 7-2005, Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an khẳng định không thể giám định lại. Bởi các mẫu vân tay dùng để so sánh in mờ nhòe, tờ khai chứng minh nhân dân đứng tên bà H. chỉ in vân ngón trỏ phải và trỏ trái. Trong khi đó, hai dấu vân tay điểm chỉ cần giám định lại không ghi rõ vân ngón nào. Cuối năm 2007, TAND quận 8 mở phiên xử sơ thẩm vụ án và tuyên bác yêu cầu đòi đất của nguyên đơn Tháng 5-2008, TAND TP.HCM mở phiên xử phúc thẩm và sửa án sơ thẩm. Cấp phúc thẩm buộc bị đơn giao trả cho nguyên đơn gần 70 m2 đất. Do bị đơn đã xây nhà trên phần đất tranh chấp và được hợp thức hóa chủ quyền nên bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn hơn 400 triệu đồng. tháng 5-2009, viện trưởng VKSND tối cao đã quyết định kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên của TAND TP.HCM đề nghị hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. CÓ ĐƯỢC LY HÔN KHÔNG? Ông P. kể rằng vợ chồng ông kết hôn năm 1987. Ba năm sau thì có một bé gái. Tuy nhiên, một năm sau nữa, vợ ông bỏ nhà đi… 12 năm trước, ông cũng đã nộp đơn ra tòa này xin ly hôn vì vợ bị bệnh bởi bà hay nói ông lăng nhăng. Rồi bà từng một lần tự tử, phá phách, chửi bới ông, đánh con trước mặt lối xóm... Ông không thể chung sống vì nếu sống chung sẽ sinh ra những người con không bình thường. Tuy nhiên, vợ ông lại phản bác cho là mình rất bình thường, không mắc bệnh gì cả. Bà vẫn rất yêu thương chồng con… Bà nhấn mạnh thêm rằng từng bị sốc khi biết ông không chung thủy, phụ bạc. Gia đình có đưa bà đi khám vì bà bị bệnh về nhân cách, không có bệnh về tâm thần. Sau khi nghe hai bên trình bày, cuối cùng tòa quyết không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông P. vì bà vợ chỉ bị sốc về tình cảm dẫn đến ảnh hưởng tinh thần chứ không phải mắc bệnh tâm thần như ông nại ra. Giờ đây, để chuyện ly hôn có kết quả, ông làm đơn yêu cầu tòa tuyên bố bà mất năng lực hành vi dân sự. Bởi nếu ông không làm được thủ tục này thì không có cách nào khác để ly hôn. tòa đã mời vợ ông P. cùng gia đình bà này đến để phối hợp giải quyết nhưng hết người này đến người khác đều không xuất hiện. Trong khi luật thì cũng không quy định tòa được cưỡng chế họ khi họ không hợp tác nên vụ án đành phải… treo. ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ Vợ chồng ông Nguyễn Văn Bé Tư (quận 2, TP.HCM) bán một lô đất cho Công ty Đức Minh. Hai bên cam kết bên bán có trách nhiệm đảm bảo tính pháp lý của lô đất cho bên mua. Sau đó, bên mua đã giao tiền như hợp đồng. Bên bán cũng đã tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng, cắm mốc giao đất cho bên mua. Năm 2002, bên mua xin UBND TP.HCM chuyển dự án đầu tư nhà trên khu đất này từ bên bán cho bên mua và được chấp thuận. Đồng thời, ủy ban yêu cầu các đương sự phải có nghĩa vụ bồi thường cho nhà nước một số diện tích đất kênh rạch trong phần đất chuyển nhượng. Việc này đã phát sinh tranh chấp. Bên bán bảo rằng mình đã hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, đã giao đất nên phần bồi thường từ việc chuyển dự án đầu tư này bên mua phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, bên mua lại bảo trong hợp đồng, bên bán cam kết đảm bảo các thủ tục pháp lý về lô đất do vậy phần tiền trên bên bán phải bồi thường. Không ai chịu ai, cả hai đã kéo nhau ra tòa. Xử sơ thẩm, TAND quận 2 đã chấp nhận yêu cầu của bên mua, buộc bên bán phải có trách nhiệm bồi thường tiền đất kênh rạch cho nhà nước. Sau đó, xử phúc thẩm, TAND TP.HCM đã y án sơ thẩm. Hai bản án trên đã bị viện trưởng VKSND Tối cao kháng nghị giám đốc thẩm đề nghị hủy để xử lại. Theo kháng nghị, hợp đồng giữa hai bên không thỏa thuận khoản tiền đóng cho nhà nước để thay đổi mục đích sử dụng đất. Do vậy, trách nhiệm đóng phải là của bên mua. Hai cấp tòa buộc bên bán phải gánh chịu là không có căn cứ. Xử giám đốc thẩm, Tòa Dân sự (TAND Tối cao) nhận định quyết định kháng nghị của viện trưởng VKSND Tối cao là có căn cứ chấp nhận bởi khi ký hợp đồng, các bên không thỏa thuận trách nhiệm của bên bán phải chịu các chi phí phát sinh sau khi ký kết hợp đồng cũng như chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Do vậy, tòa hủy hai bản án sơ, phúc thẩm, giao về cấp sơ thẩm xử lại. Tuy nhiên, xử sơ thẩm lần hai mới đây, TAND quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm như đã xử lần một, vẫn buộc bên bán phải chịu trách nhiệm bồi thường. Ngay sau đó, bên bán đã kháng cáo. Bên này cho rằng quyết định giám đốc thẩm đã định hướng xử lý vụ việc chính xác, tòa cấp sơ thẩm không theo định hướng trên khiến cho vụ việc phán quyết không thống nhất là có sai sót… Vào một đêm đẹp trời, cô Holly Marie Adams (gọi tắt là Adams) cùng một nhóm bạn gái đi xem cuộc biểu diễn của các chàng cao bồi tại thành phố Sikeston. Sau khi chán chê cuộc vui, Adams ghé vào nhà của hai chàng trai trẻ Raymon và Richard Miller mặc dù không có hò hẹn trước. Trong đêm lưu lại nhà của gia đình Miller, Adams đã quan hệ tình dục với Raymon. Vài giờ sau, cô lại quan hệ với Richard. Sau đêm chăn gối cuồng nhiệt đó, Adams mang thai và sinh ra một bé gái. Hai anh em sinh đôi Raymon (phải) và Richard Miller Một mình nuôi con tốn kém và vất vả, Adams muốn cha của đứa bé chia sẻ gánh nặng với mình. Cô nhất quyết trong hai anh em, Raymon chính là cha của đứa bé. Raymon không chấp nhận. Anh cho rằng người anh em song sinh Richard cũng có thể là cha của đứa bé vì cũng có quan hệ tình dục với Adams. Raymon đòi thử ADN cả hai anh em để xác định ai đích thực là cha của đứa bé. Kết quả thử ADN cho thấy cả Richard lẫn Raymon đều có khả năng là cha ruột của đứa bé tới 99,9%. Kết quả này không lạ vì hai người là anh em song sinh cùng trứng. Tranh chấp căn hộ The Manor Ngày 19-4-2010, TAND quận Bình Thạnh (TP.HCM) một lần nữa mở phiên tòa xét xử vụ tranh chấp căn hộ The Manor giữa chủ đầu tư là Công ty TNHH sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh (Bitexco) với khách hàng Nguyễn Thị Bình. Phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất đã được TAND quận Bình Thạnh mở vào tháng 2-2008 với phán quyết phần thắng thuộc về Bitexco. Lúc bà Bình ký hợp đồng mua căn hộ, giá trị căn hộ là 167.000 USD. Tại thời điểm tranh chấp, căn hộ đã có giá khoảng 260.000 USD (tương đương hơn 4,4 tỉ đồng) nhưng bản án sơ thẩm tuyên cho Bitexco được nhận lại căn hộ và chỉ phải trả lại khoản tiền mà bà Bình đã trả cho công ty là hơn 2,5 tỉ đồng (kể cả lãi). Bà Bình kháng cáo. Ngày 24-6-2008, TAND TP.HCM đã tuyên hủy toàn bộ bản án, giao hồ sơ về TAND quận Bình Thạnh để xét xử lại từ đầu, với lý do vụ án có nhiều vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Tại phiên sơ thẩm lần thứ hai ngày 19-4-2010, khách hàng Nguyễn Thị Bình cho biết bà ký hợp đồng mua căn hộ (số AE-305) với giá 167.000 USD. Ngoài hợp đồng mua bán căn hộ giữa hai bên, Bitexco và bà còn ký với Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh TP.HCM một thỏa thuận ba bên để vay vốn mua căn hộ. Phía ngân hàng sẽ cho bà Bình vay 50% trị giá căn hộ trong thời gian 10 năm, khi nào có giấy chủ quyền nhà thì bà Bình sẽ thế chấp cho ngân hàng. Tháng 11-2006 bà Bình được Bitexco bàn giao căn hộ. Tuy nhiên, chỉ sau khi nhận nhà vài tháng, bà Bình bức xúc vì nhiều hạng mục nội thất của căn hộ kém chất lượng. Đỉnh điểm là vào khoảng tháng 5-2007, nhà vệ sinh của căn hộ AE-305 nhiều lần bị chất thải trào ngược lên rất hôi thối, mất vệ sinh. Khi bà Bình khiếu nại, đại diện Bitexco hứa sẽ sửa chữa và còn cam kết có thể đổi căn hộ khác cho bà. Tuy nhiên, việc sửa chữa sau đó không đạt chất lượng, đề nghị được đổi căn hộ khác của bà Bình cũng không được chấp thuận nên hai bên đã xảy ra mâu thuẫn gay gắt. Mấu chốt của vụ án là việc xác định khách hàng Nguyễn Thị Bình có vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng hay không đã được các bên tranh luận gay gắt. Tại phiên tòa, đại diện Bitexco nói dù công ty đã nhiều lần gửi thư nhắc nợ nhưng bà Bình vẫn không thanh toán nốt khoản nợ 15.000 USD nên Bitexco có quyền đơn phương hủy hợp đồng. Còn theo luật sư Nguyễn Văn Trung - người bảo vệ quyền lợi cho bà Nguyễn Thị Bình - thì ngược lại. Theo thỏa thuận ba bên giữa Bitexco, bà Bình và ngân hàng, bà Bình phải thanh toán đủ 50% trị giá hợp đồng thì ngân hàng sẽ cho vay tiếp 50%. Mà Bitexco đã có văn bản xác nhận bà Bình thanh toán đủ 50% trị giá hợp đồng nên bà Bình được ngân hàng cho vay 50% trị giá căn hộ để trả cho Bitexco thì có nghĩa bà Bình đã thanh toán đủ 100% trị giá hợp đồng. Tại phiên tòa, khách hàng Nguyễn Thị Bình cũng đề nghị Bitexco bồi thường cho bà khoản tiền mà gia đình bà phải bỏ ra thuê nhà để ở trong suốt hơn hai năm tranh chấp. Đại diện Bitexco không đồng ý vì cho rằng khi lấy lại căn hộ AE-305 để sửa chữa đã bố trí cho gia đình bà Bình một căn hộ trong tòa nhà để ở tạm nhưng bà Bình không ở mà tự ra ngoài thuê. Trong khi đó, bà Bình cho biết: đúng là công ty có bố trí căn hộ B502 để gia đình bà ở nhưng tháng 11-2007, The Manor đưa vào sử dụng hệ thống thẻ từ để kiểm soát việc ra vào tòa nhà. Gia đình bà không được cấp thẻ nên cứ phải đứng canh, nhờ thẻ của người khác để ra vào nhà mình. Chính vì vậy, bà đành trả lại căn hộ B502 để đi thuê chỗ khác. Bà Bình đã đề nghị tòa tuyên buộc Bitexco phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, trường hợp tòa tuyên hủy hợp đồng thì Bitexco phải trả lại cho bà khoản tiền theo trị giá căn hộ thời điểm hiện nay, khoảng 272.000 USD (tương đương hơn 5 tỉ đồng, theo kết quả định giá mà tòa trưng cầu). Bà Bình cũng đề nghị tòa buộc Bitexco bồi thường khoản tiền gia đình bà phải bỏ ra thuê nhà để ở tổng cộng hơn 22.000 USD. GIÁM HỘ Cha mẹ chị Thủy chỉ có chị là người con duy nhất. Người thân thích của chị Thủy cũng không còn ai. Khi lấy chồng, chị Thủy dọn ra ở riêng. Cha mẹ chị tiếp tục ở căn nhà mua hóa giá của nhà nước tại phường 15. Cả hai đều lớn tuổi, bệnh nặng và bị lú lẫn, không thể tự chăm sóc bản thân. Vậy là chị Thủy phải trở về nhà để chăm nom. Do hoàn cảnh khó khăn, chạy xe ôm không có nhiều tiền nên chị Thủy phải vay mượn khắp nơi để trang trải cuộc sống. Trước bệnh tình của cha mẹ, chị Thủy đã đến TAND quận 10 xin tuyên cả hai cụ mất năng lực hành vi dân sự. Tháng 7-2008, TAND quận 10 có phán quyết chấp nhận yêu cầu của chị Thủy. Chị Thủy cũng đã làm thủ tục để được công nhận là người giám hộ của cha mẹ mình. Tháng 3-2009, mẹ chị Thủy qua đời, không để lại di chúc. Sau khi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, chị Thủy và cha đồng đứng tên trên giấy hồng. Phần của người cha có ghi chú chị Thủy là người giám hộ. Muốn trả hết nợ và tìm mua một nơi ở khác cho cả gia đình và chữa bệnh cho cha, chị Thủy quyết định bán nhà. Tìm được người mua, chị Thủy đến Phòng Công chứng số 4 để chứng nhận hợp đồng mua bán nhưng nơi này từ chối chứng nhận. Theo chỉ dẫn, chị Thủy đã làm tờ cam kết (được UBND phường chứng thực) với nội dung việc chị bán nhà và sử dụng số tiền phải đảm bảo quyền lợi cho người cha. Nhưng sau đó Phòng Công chứng số 4 lại yêu cầu UBND phường 15 phải cử người giám sát chị Thủy. UBND phường 15 lại không giải quyết. UBND phường 15 không giải quyết đúng hay sai? BẢO HÀNH THEO LUẬT HAY THEO HỢP ĐỒNG Mới đây, Công ty TNHH Thương mại Đất Phương Nam, chủ đầu tư tòa nhà, thông báo hết thời hạn bảo hành nhà vào ngày 30-4-2008. Những hư hỏng sau đó của các căn hộ sẽ do chủ sở hữu tự bỏ chi phí để sửa chữa. Tại buổi họp giữa hai bên sáng 18-1, ông Hoàng Nghĩa Long (phòng 1, lầu 6, lô B) cho biết nhiều thiết bị trong tòa nhà đã bị hư hỏng nhưng chưa được sửa chữa. Tường bị thấm nước, sơn tường tróc loang lổ, một số căn hộ hễ xả nước nhiều thì hệ thống thoát nước nghẹt ứ. “Phải kéo dài thời gian bảo hành tòa nhà để sửa chữa những hư hỏng trên. Chúng tôi mua nhà cao cấp mà phải chịu những hiện tượng như thế là không được” - ông Long nói. Nhiều người dân yêu cầu công ty phải bảo hành tòa nhà trong 60 tháng theo Luật Nhà ở dành cho cao ốc cao trên chín tầng. Ông Trần Mạnh Hùng, Giám đốc Công ty Đất Phương Nam, giải thích thời điểm Luật Nhà ở có hiệu lực (từ ngày 1-7-2006) thì công ty ông đã xây dựng gần xong tòa nhà. Nhà thầu xây dựng và các công ty cung cấp thiết bị không đồng ý kéo dài thời hạn bảo hành công trình. Nếu như vậy, họ phải mua bảo hiểm công trình và thiết bị, chi phí kết cấu, xây dựng thiết bị điện cơ sẽ đội lên. Đến thời điểm Luật Nhà ở có hiệu lực, công ty đã ký hợp đồng bán nhà cho hơn 100 khách hàng. Những hợp đồng ký sau ngày 1-7-2006, công ty cũng thống nhất giữ lại điều khoản này. “Khách hàng ký hợp đồng thì phải tuân theo quy định của hợp đồng chứ không thể khác được” - ông Hùng khẳng định. Người dân cho rằng những thiết bị điện gia dụng, nước, đồ gỗ... thì có thể bảo hành trong 24 tháng như hợp đồng. Còn những hạng mục khác như hệ thống điện, nước, kết cấu tòa nhà phải được bảo hành 60 tháng. Tuy nhiên, ông Hùng cho rằng công ty chỉ bảo hành phần kết cấu của tòa nhà tức là cột, đà nhà chứ không phải là tất cả thiết bị, hệ thống liên quan đến căn hộ. “Hợp đồng ghi bảo hành trong 24 tháng nhưng những kết cấu căn nhà như hệ thống chịu lực, đà, tường... thì công ty sẽ bảo đảm cho chủ nhà từ 50 đến 100 năm chứ không phải năm hay 10 năm” - ông Hùng nói. Theo Điều 74 Luật Nhà ở, nội dung bảo hành nhà ở bao gồm khắc phục, sửa chữa, thay thế kết cấu nhà ở, thiết bị hư hỏng, khiếm khuyết hoặc khi vận hành sử dụng không bình thường không phải do lỗi của người sử dụng nhà gây ra. Còn chuyện thiết bị điện, cơ... kèm theo nhà chung cư trên chín tầng có phải bảo hành 60 tháng hay không thì chưa rõ. THỰC HIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM Năm 2006, bà V. và bà T. hùn tiền đấu thầu được một khu đất tại tỉnh B. Khi bà V. yêu cầu được chia lợi nhuận thì hai bên mâu thuẫn. Bà V. đã kiện bà T. ra tòa đòi trả lại hơn 2,3 tỉ đồng tiền gốc đã bỏ ra mua đất cùng tiền lãi. Trong quá trình tòa giải quyết án, thấy bà T. bán một phần trong tổng diện tích lô đất chung nhằm tẩu tán tài sản, bà V. đã yêu cầu tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm không cho bà T. chuyển dịch tài sản tiếp. Tòa chấp nhận yêu cầu này và yêu cầu bà V. đóng 420 triệu đồng tiền phí bảo đảm, khoảng 9% giá trị khối tài sản yêu cầu kê biên (4,6 tỉ đồng). Vụ khác, tháng 3-2010, bà L. kiện ông Q. ra tòa vì ông này vay của bà 70 triệu đồng nhưng mãi không trả. Tòa vừa thụ lý, bà L. đã yêu cầu tòa kê biên chiếc xe hơi cũ của ông Q. vì sợ ông sẽ bán để trốn tránh việc trả nợ. Tòa chấp nhận, sau khi xem xét giá trị chiếc xe hơi là khoảng 300 triệu đồng, tòa đã yêu cầu bà L. phải đóng tiền bảo đảm đúng 300 triệu đồng, tức 100% giá trị tài sản yêu cầu kê biên. Tòa nào áp dụng pháp luật đúng? Căng bạt để đòi nợ Một tấm bạt thông báo việc khách hàng (Công ty Dầu nhớt Davina) chây ỳ không chịu thanh toán tiền biển quảng cáo cho một công ty quảng cáo. Tấm bạt này được căng ngay trên panô quảng cáo của Davina và chiếm đến một phần hai tấm panô. Vị trí căng bạt nằm ở đầu dốc cầu Chương Dương chạy xuống Nguyễn Văn Cừ, nằm bên phải đường theo hướng từ Hà Nội sang. Cách đòi nợ như thế có đúng pháp luật không? MỨC BỒI THƯỜNG Tháng 9-2006, bà Dung mua một con chó Phú Quốc hai tháng tuổi. Tháng 3-2008, bà thuê doanh nghiệp của ông K. huấn luyện cho chó với chi phí 1 triệu đồng/tháng. Bà Dung đã đưa trước cho phía ông K. 2 triệu đồng. Bốn tháng sau, bà Dung được ông K. thông báo là chó của bà đã bị mất. Xót con chó cưng, bà khởi kiện ra TAND quận Thủ Đức yêu cầu tòa buộc ông K. bồi thường 100 triệu đồng. Bà Dung liệt kê năm khoản: Tiền mua chó 60 triệu đồng, tiền nuôi chó 27 triệu đồng, chi phí tiêm ngừa 3 triệu đồng, tiền huấn luyện chó 2 triệu đồng, tiền chăm sóc, đưa đón chó 8 triệu đồng. Đầu tháng 7-2010, TAND quận Thủ Đức xử sơ thẩm đã bác yêu cầu đòi bồi thường khoản tiền chăm sóc, đưa đón chó, chỉ chấp nhận bốn khoản còn lại với tổng số tiền buộc phía ông K. phải bồi thường cho bà Dung hơn 6 triệu đồng. Bà Dung kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm , bà Dung đã rút số tiền đòi bồi thường xuống còn 30 triệu đồng gồm: Tiền mua chó hơn 14 triệu đồng, tiền nuôi chó gần 11 triệu đồng… Theo tòa phúc thẩm, tòa đã tham khảo giá chó Phú Quốc loại hai tháng tuổi tại một số cơ sở thì có giá khoảng hơn 2 triệu đồng. Còn tiền nuôi chó tòa cũng đã tham khảo và đưa ra giá bình quân là 600.000 đồng/tháng… Tổng cộng, tòa buộc ông K. phải bồi thường 16,8 triệu đồng. Đặc trưng của chó Phú Quốc - Bộ lông sát và ngắn. - Có xoáy trên lưng. - Chân có màng vịt, bơi giỏi. - Lưỡi có màu đen hoặc vài đốm đen kịt. - Trên trán có những nếp nhăn, hai tai dựng thẳng, đuôi cong ngược lên sống lưng kiểu “quắc cần câu”. - Thích săn thú và săn rất giỏi. - Khôn và rất hung dữ nhưng lại rất trung thành với chủ. Ý kiến anh, chị? Đám cưới cô dâu 17, chú rể 14 Anh Hà Ngọc Tính (SN 1978) quyết định kết tình sui gia với anh Nguyễn Văn Lạc (SN 1963, cùng ngụ xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, Long An). Ai cũng phải giật mình vì tân lang Hà Ngọc Toán (con anh Tính) vừa tròn 14 tuổi kết hôn cùng cô dâu Nguyễn Thị Mỹ Tiên, 17 tuổi. Chỉ riêng về tuổi tác thì “chồng” nhỏ hơn vợ đến 3 tuổi. Theo gia đình anh Tính, việc cưới vợ cho con chưa đủ tuổi là vi phạm pháp luật nhưng anh cũng kết luận một cách khá khôi hài: “Hai đứa thương nhau quá nên cưới, nếu để lâu quá tui sợ...”. Theo tìm hiểu, người dân địa phương cho rằng, anh Tính đã ép buộc con trai mình phải cưới vợ, con không đồng ý anh còn có lời nói thô bạo, thậm chí dùng cả bạo lực. Vì sợ cha, chú rể phải chấp nhận. Đối với cô dâu Mỹ Tiên thì lại lạc quan và yêu đời hơn rất nhiều. Chị Đoàn Thị Thủy, chủ tiệm uốn tóc ở Gò Pháo kể, lúc vào tiệm trang điểm, Mỹ Tiên khoe với mọi người tại đây “em 17 tuổi, còn chồng em 14 nhưng hai đứa yêu nhau dữ lắm, tuổi tác đâu thành vấn đề, cưới sớm có con sớm mau được nhờ”. Ngày 14-3, đám cưới của đôi “uyên ương” chính thức tổ chức với đầy đủ lễ vật. Không chỉ mời khách trong thân tộc, xóm giềng chung xã mà anh Tính còn thuê văn nghệ ca hát tưng bừng. Xử lý thế nào? Cô dâu có phạm tội giao cấu với người chưa thành niên? CÔNG DÂN CHẾT KHI NÀO? Năm 1976, do mâu thuẫn trong gia đình, ông C. bỏ nhà đi. Gia đình tìm kiếm khắp nơi nhưng không có tin tức. 10 năm sau, theo yêu cầu của vợ ông, tòa tuyên bố ông mất tích. Từ đó, ông C. vẫn biệt tăm. Năm 2009, vợ ông yêu cầu TAND quận 11 (TP.HCM) tuyên bố ông đã chết. Tháng 3-2010, căn cứ theo khoản 1 Điều 81 Bộ luật Dân sự, TAND quận 11 tuyên bố ông C. đã chết, ngày chết là ngày 26-9-2009 (ba năm sau ngày tòa tuyên bố ông mất tích). Quyết định này đã bị VKS TP kháng nghị vì cho rằng TAND quận 11 xác định ngày chết của ông C. chưa đúng. Theo VKS, ngày chết của ông C. phải được xác định theo khoản 1 Điều 78 Bộ luật Dân sự. Theo đó, nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng của ông C. thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo có tin tức cuối cùng. Nếu không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Theo luồng quan điểm thứ nhất, nếu trường hợp tuyên bố chết thuộc điểm a Khoản 1 (sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của tòa có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống) thì ngày chết là ngày người đó bị tòa tuyên bố mất tích. Nếu thuộc trường hợp tại điểm b (biệt tích trong chiến tranh sau năm năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống) thì ngày chết là ngày kết thúc chiến tranh. Nếu thuộc trường hợp tại điểm c (bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống…) thì ngày chết là ngày chấm dứt tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai. Nếu thuộc trường hợp tại điểm d (biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống…) thì ngày chết là ngày người đó biệt tích. ví dụ: Ông A đang phải cấp dưỡng nuôi con thì mất tích. Năm 2005, tòa tuyên bố ông mất tích theo yêu cầu của vợ cũ của ông; giao tài sản của ông cho cha mẹ ông quản lý. Năm 2007, có tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và tòa buộc cha mẹ ông A sử dụng tiền của ông để cấp dưỡng thay. Năm 2010, khi giải quyết yêu cầu tuyên bố một người đã chết, nếu tòa tuyên bố ông A chết vào năm 2005 thì sẽ mâu thuẫn với bản án tòa buộc cha mẹ ông A cấp dưỡng thay con năm 2007. Bởi lẽ nếu xác định ông A chết vào năm 2005 thì đồng nghĩa với việc nghĩa vụ cấp dưỡng của ông cũng chấm dứt ngay từ lúc đó. ví dụ khác: Theo yêu cầu của người liên quan, năm 2006, tòa tuyên bố ông B mất tích. Năm 2007, vợ ông B xin ly hôn, được tòa chấp nhận. Năm 2010, khi giải quyết yêu cầu tuyên bố ông B đã chết, nếu tòa tuyên ông B chết vào tháng 2-2006 thì sẽ mâu thuẫn với bản án mà tòa cho vợ ông ly hôn năm 2007. Bên cạnh đó, xác định ngày chết là ngày chiến tranh kết thúc cũng không phù hợp. Còn trong tai nạn, thiên tai, thảm họa, không phải ai cũng chết ngay khi chấm dứt thảm họa mà thường là chết sau đó do không được cứu giúp, cứu giúp không được..., nếu xác định ngày chết là thời điểm chấm dứt thảm họa cũng chưa ổn. Bi kịch cưới nhầm trẻ con Bị cáo Thuận (trái) trao đổi với luật sư khi tòa nghị án. 10 năm sau khi lấy vợ, có hai con, bị cáo bỗng bị bắt về tội hiếp dâm trẻ em do cưới nhầm cô dâu mười hai tuổi rưỡi. Thuận làm nghề sửa xe máy thuê, còn N. hằng ngày phụ bán hàng cho người dì ở một cửa hàng bên cạnh (thuộc thị trấn Hòa Thành, Tây Ninh). Từ quê lên thị trấn, thoát cảnh chân lấm tay bùn nên cô bé N. trở nên trắng trẻo, phổng phao, vẻ người lớn. Qua mai mối, họ đã làm quen và thân nhau lúc nào không hay. Hai bên gia đình biết chuyện nên cũng có ý tác hợp cho con trẻ. ngày 25-5-1998, Thuận và N. ra mắt họ hàng, bạn bè bằng một đám cưới long trọng. Về sống chung, đôi lần Thuận ngờ ngợ vợ mình còn ít tuổi. Năm 2008 thì vợ chồng Thuận quyết đường ai nấy đi nên ra tòa ly hôn. Đúng 10 năm sau khi đám cưới, tháng 4-2008, TAND huyện Hòa Thành xét xử và chấp nhận cho Thuận và N. ly hôn. Một tháng sau, khi kiểm sát án sơ thẩm, VKS huyện phát hiện khi Thuận cưới N., cô dâu còn quá nhỏ tuổi nên Thuận có dấu hiệu phạm tội. Nơi đây đã chuyển tin báo tội phạm cho cơ quan điều tra huyện. Sau vài lần được gọi lên lấy lời khai, ngày 30-10-2008, Thuận bị bắt giam về tội hiếp dâm trẻ em do đã “quan hệ” với người mới mười hai tuổi rưỡi. Sau đó, hồ sơ được chuyển qua viện và tòa. Tháng 3-2009, TAND tỉnh Tây Ninh đưa vụ án ra xử sơ thẩm. Tại phiên xử, Thuận thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. N. cũng làm đơn xin bãi nại cho Thuận. Phía tòa nhận định, Thuận đã thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù giữa Thuận và N. tự nguyện tìm hiểu yêu thương, tự nguyện giao cấu và đã có hai con chung nhưng hành vi của Thuận là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, Thuận đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, do đó tòa phạt Thuận tám năm tù về tội hiếp dâm trẻ em. Tòa án giải quyết như vậy là đúng hay sai? VAY TIỀN HAY TẶNG CHO? Anh Việt kiều đưa tiền cho bạn gái mua đất, xây nhà rồi kiện bạn phải trả lại tiền. Theo ông T. (Việt kiều Mỹ), sau khi quen biết một thời gian, ông đã cho bà Tr. mượn tiền để mua đất, xây nhà. Bà Tr. cam kết sẽ trả lại cho ông số tiền đã mượn. Nghĩ rằng nơi thân tình, ông không lập giấy tờ gì. Tuy nhiên, do chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng nên ông có các giấy tờ liên quan cho thấy có việc giao nhận tiền giữa hai bên. Đồng thời sau khi mua nhà đất, bà đã đưa giấy tờ nhà đất cho ông giữ. Thời gian gần đây, ông đã đòi lại hơn 500 triệu đồng nhưng bà không đồng ý, buộc ông phải khởi kiện. Dù tại tòa bà Tr. cho rằng số tiền trên là do ông T. tự nguyện cho bà vì hai bên có quan hệ thân thiết, không phải tiền vay nhưng Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã bác lập luận này. Tòa cho rằng bà Tr. không có chứng cứ gì chứng minh là ông T. tự nguyện cho bà. Mặt khác, qua các giao dịch tại ngân hàng, có đủ cơ sở xác định bà Tr. đã nhận tiền của ông T. Kèm các chứng cứ khác, thấy rõ ràng rằng bà Tr. đã mượn tiền của ông T. chứ không phải là cho tặng gì cả. Do vậy, tòa đồng tình với cấp sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu của ông T. buộc bà Tr. phải trả lại tiền đã mượn cho… khổ chủ. Quanh vụ kiện đã có hai quan điểm về cách đánh giá chứng cứ của tòa. Một quan điểm đồng tình với tòa, cho rằng tòa đã tuyên chính xác, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Quan điểm khác lại bảo tòa đánh giá chứng cứ chưa chuẩn, dẫn đến việc tuyên “oan” cho bà Tr. Theo quan điểm này, khi khởi kiện, bản thân ông T. cũng không có chứng cứ trực tiếp như giấy cho vay tiền để chứng minh đã cho bà Tr. vay số tiền trên. Phía bà Tr. lại kịch liệt phản đối. Ông chỉ có chứng cứ gián tiếp là chuyển tiền cho bà Tr. qua ngân hàng và bà này đã ký nhận cùng với việc ông giữ giấy tờ nhà của bà. Tuy nhiên, những chứng cứ này cũng chưa thể nói đó là vay mượn tiền. Cũng có thể hiểu rằng hai người có tình cảm thân thiết nên bà Tr. được ông này cho tiền và bà nhờ ông giữ giùm giấy tờ nhà… Mặt khác, không thể nại rằng bà Tr. không chứng minh được mình được tặng cho tiền nên quy ra là ông T. đã cho bà Tr. vay. Việc bà Tr. không chứng minh được tặng cho không quan trọng bằng việc ông T. phải chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình. Mà như đã phân tích ở trên, ông T. cũng không có chứng cứ chắc chắn về việc vay mượn này. BỒI THƯỜNG CÓ PHÙ HỢP Do lỗi lơ đễnh của một tài xế xe ôtô mà chị Trần Minh Tú (quận Tây Hồ, Hà Nội), chuyên gia dạy các môn thể dục thẩm mỹ, trang điểm, trở thành người tàn phế khi đang ngồi trong nhà văn hóa quận Hai Bà Trưng. Trong phiên xử sơ thẩm vừa qua, TAND quận Hai Bà Trưng tuyên buộc bị cáo Nguyễn Văn Thái bồi thường cho chị Tú tổng cộng chỉ có... 37 triệu đồng. Chị Tú yêu cầu Thái phải bồi thường tổng cộng 970 triệu đồng, trong đó gồm: hơn 50 triệu đồng tiền điều trị tại bệnh viện (có hóa đơn), 540 triệu đồng tiền thu nhập bị mất cho đến năm 55 tuổi và 200 triệu đồng tiền bồi thường tổn thất tinh thần. Chị Tú bị thương tật đến 61% nhưng tòa sơ thẩm chỉ buộc bị cáo bồi thường tổng cộng có 37 triệu đồng. Thế nhưng TAND quận Hai Bà Trưng tuyên bị cáo chỉ phải bồi thường cho chị Tú tổng cộng 37 triệu đồng. Trong đó tiền điều trị là 11 triệu đồng, tiền hồi phục bảy triệu đồng, ba tháng thu nhập bị mất là 13 triệu đồng... Tiền thu nhập bị giảm sút, tiền bồi thường chiếc xe máy của chị Tú bị hư, tiền phụ nuôi mẹ của chị Tú hơn 80 tuổi đều không được tòa tính đến. Dựng quan tài để trả thù chủ nợ Đó là ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ nhiệm CLB Kinh tế nông thôn thuộc báo Kinh Tế Nông Thôn đặt văn phòng liên lạc tại địa phương trên. Cớ sự phát sinh từ việc bà Nguyễn Thị Bích Đào, người đang chung sống với ông Thọ như vợ chồng, bị kiện đòi nợ. Năm 2009, bà Đào thế chấp một phần đất của mình để vay của bà Trần Thị Cẩm Liên (ngụ Vũng Tàu) gần 200 triệu đồng. Đất ấy nằm gần nhiều phần đất khác của ông Thọ. Án tòa xử bà Đào phải trả nợ nhưng bà Đào không chịu thi hành án (THA). Do vậy, Chi cục THA dân sự huyện Xuyên Mộc đã kê biên, phát mại đất của bà Đào. Hai chiếc quan tài này đặt sát bên diện tích đất đấu giá. Chỉ ít ngày sau khi chi cục đo đất, đóng cọc, ông Thọ đã đem về đây hai chiếc quan tài mới. Ông Thọ cho xây gạch, lợp mái tôn trên phần đất của mình nằm kế ngay lối ra vào của phần đất chuẩn bị phát mại rồi đặt hai quan tài vào trong. Hỏi “Sao để đó?”, ông đáp: “Mua để làm từ thiện”. Đã có người tới xem đất nhưng khi nhìn thấy hai chiếc quan tài đặt vậy, họ lắc đầu rồi bỏ đi ngay. Đến giờ đất vẫn chưa bán được”. Có vi phạm pháp luật không? XỬ LÝ THẾ NÀO? Theo hồ sơ, cuối năm 2003, vợ chồng anh L. đồng đứng đơn thuận tình ly hôn gửi ra TAND quận Hải Châu. Trong đơn, họ nói cha mẹ anh L. làm di chúc cho họ được thừa hưởng một căn nhà. Kèm theo đó là bản di chúc của cha mẹ anh L. lập năm 2002 cùng một lá đơn của ông bà gửi UBND phường Hòa Thuận xác nhận rằng vợ chồng anh L. được toàn quyền sở hữu ngôi nhà theo di chúc. Tại phiên hòa giải sau đó, vợ chồng anh L. vẫn một mực xin được ly hôn. Về phần con cái, hai bên thỏa thuận để đứa con gái duy nhất sống với mẹ. Về phần tài sản, hai bên thống nhất giao ngôi nhà trên cho con gái được quyền sở hữu, sử dụng nhưng do cháu còn vị thành niên nên tạm thời giao anh L. quản lý, khi nào cháu đủ 18 tuổi thì sẽ sang tên. Tháng 1-2004, TAND quận Hải Châu đã ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn với các nội dung trên. Cuộc sống cứ thế trôi qua, lần lượt người vợ cũ tái giá, rồi anh L. cũng có hạnh phúc mới. Riêng cha mẹ anh L. cuối năm 2006 mới biết ngôi nhà mình đứng tên sở hữu đã bị chia khi họ còn sống sờ sờ. Vậy là họ lập di chúc mới, bỏ tên con dâu cũ ra ngoài diện hưởng thừa kế và khiếu nại lên VKSND TP Đà Nẵng. Tháng 3-2007, VKS đã kháng nghị tái thẩm, nhận định khi xin ly hôn, vợ chồng anh L. tự chia nhà được hưởng thừa kế trong lúc cha mẹ anh L. - chủ sở hữu nhà chưa mất, thừa kế chưa mở là bất hợp pháp. Tòa phân xử mà không mời cha mẹ anh L. tham gia tố tụng là sai. Những sai sót đó đã xâm hại nghiêm trọng quyền lợi của cha mẹ anh L. Theo VKS, việc cha mẹ anh L. hủy di chúc cũ, lập di chúc mới và khiếu nại phán quyết của tòa là tình tiết mới, đủ cơ sở để TAND TP Đà Nẵng tái thẩm, hủy phần công nhận thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng anh L. Ba tháng sau, VKSND TP Đà Nẵng lại rút quyết định kháng nghị tái thẩm. Theo văn bản này, “tình tiết mới” được đưa ra làm cơ sở kháng nghị tái thẩm không vững chắc, còn kháng nghị giám đốc thẩm thì đã hết thời hạn xem xét (ba năm kể từ ngày bản án, quyết định của tòa có hiệu lực pháp luật). Rối vì hồ sơ án gửi bưu điện bị mất Hồ sơ một vụ tranh chấp đất trị giá bạc tỉ được TAND Tối cao gửi bưu điện về tòa cấp dưới đã bị thất lạc. Hơn bảy năm trước, bà L. cho một người quen mượn trên 30.000 m2 đất tại TP Phan Thiết (Bình Thuận) để canh tác. Theo bà, làm được một thời gian, người này đã lấy luôn đất của bà. Năm 2003, bà khởi kiện đòi lại tài sản. Sau ba năm thụ lý vụ kiện, tháng 5-2006, TAND TP Phan Thiết bất ngờ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Không đồng tình với quyết định này, bà L. kháng cáo. Tuy nhiên, TAND tỉnh Bình Thuận đã bác kháng cáo của bà. Thấy bị thiệt thòi, bà liền gửi đơn kiến nghị đến TAND Tối cao đề nghị giám đốc thẩm… Nhận được đơn, TAND Tối cao đã rút toàn bộ hồ sơ vụ kiện lên để xem xét. Tháng 5-2009, chánh án TAND Tối cao ra quyết định kháng nghị vì việc đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Sau đó, TAND Tối cao ra quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy quyết định sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho TAND TP Phan Thiết giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Ngày 29-9-2009, TAND Tối cao gửi toàn bộ hồ sơ vụ án đến TAND TP Phan Thiết theo dạng bưu phẩm bảo đảm thông qua dịch vụ của Công ty Cổ phần Bưu chính Viettel. Thế nhưng sau gần năm tháng ròng rã chờ đợi, bà L. chẳng thấy TAND TP Phan Thiết xét xử lại. Nóng lòng, bà đi khiếu nại. Kết quả xác minh của Viettel khiến mọi người đều bất ngờ: Một nhân viên ở khâu chấp nhận dịch vụ đã tự ý viết tên người nhận là Q. để trả báo phát đến TAND Tối cao. Viettel cho biết việc này sai quy trình nghiệp vụ. Viettel đang chỉ đạo những cán bộ nhân viên làm sai phải kiểm điểm để có hình thức kỷ luật thích đáng. Đơn vị này cũng cho biết để khắc phục hậu quả, họ sẽ cử cán bộ đến TAND Tối cao thương thảo thống nhất phương thức xử lý dứt điểm vụ việc và mong TAND Tối cao, TAND TP Phan Thiết... thông cảm! Được biết, ngày 17-11, TAND TP Phan Thiết đã mời bà L. đến làm việc, giải thích việc thất lạc hồ sơ không phải do lỗi của ngành tòa án mà lỗi của Viettel. TAND TP Phan Thiết cũng yêu cầu bà làm lại đơn khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự mới, họ sẽ thụ lý, giải quyết. Tuy nhiên, bà L. không đồng ý vì tất cả chứng cứ quan trọng đều nằm trong hồ sơ bị thất lạc, nay muốn thu thập các chứng cứ, tư liệu phục vụ cho việc khởi kiện mới sẽ khó khăn, mất thời gian, tiền bạc, công sức, thậm chí nhiều chứng cứ khó có thể tìm lại được. Bà L. đề nghị TAND Tối cao sớm đưa ra các giải pháp khắc phục việc thất lạc hồ sơ của bà. Ngoài ra, bà cũng yêu cầu Viettel phải bồi thường toàn bộ chi phí phát sinh từ việc thất lạc hồ sơ. Nếu không thỏa thuận được, bà sẽ khởi kiện Viettel ra tòa yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bởi chỉ vì hành vi tùy tiện của một nhân viên Viettel khiến vụ việc rắc rối, dẫn đến nhiều khả năng gia đình bà sẽ bị mất oan ức số tài sản lớn nêu trên. Cách giải quyết? Kiện công nhận hợp đồng: Thụ lý hay không? Năm 2003, ông D. (ngụ Bình Dương) mua lại nhà đất của bà N. Bàn bạc xong xuôi, hai bên ra phòng công chứng công chứng hợp đồng. Nhận thấy thỏa thuận tự nguyện, hợp pháp, phòng công chứng đã... đóng dấu. Sau đó, hai bên đã giao đất, nhận tiền. Bên mua nộp hồ sơ xin đăng bộ, nộp thuế và được hẹn ngày nhận kết quả. Tuy nhiên, đến hẹn, bên mua đến nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì lại được trả lời có công văn của cơ quan thi hành án ngăn chặn chuyển nhượng nhà đất nên chưa thể giao giấy chứng nhận được. Nguyên trước đó, do có mượn nợ của người khác, bà N. bị kiện và tòa buộc bà phải trả nợ. Cơ quan thi hành án phong tỏa tài sản trên (vì cho rằng đó là tài sản của bà N.) để đảm bảo thi hành án. Sau đó, bên mua đã khiếu nại việc kê biên của thi hành án nhưng không có kết quả. Bên mua cũng đã nhiều lần yêu cầu bên bán giải tỏa ngăn chặn việc đăng ký quyền sử dụng đất nhưng cũng không được đáp ứng. Do vậy, mới đây bên mua đã nộp đơn khởi kiện ra tòa yêu cầu công nhận lại hợp đồng để một lần nữa khẳng định việc mua bán hợp pháp và tài sản đã thuộc sở hữu của bên mua, cơ quan thi hành án không thể phong tỏa tài sản này. Xung quanh việc khởi kiện đòi công nhận hợp đồng này của bên mua đã có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng không thể thụ lý vụ án. Bởi hợp đồng đã qua công chứng, bên mua đã nhận tài sản, bên bán đã nhận tiền thì bên mua đã có toàn quyền đối với tài sản này nên việc thụ lý để công nhận hợp đồng là không còn ý nghĩa. Không thể thụ lý giải quyết một chuyện đã hiển nhiên. Trường hợp này bên mua chỉ cần khiếu nại việc kê biên tài sản để cơ quan thi hành án hủy quyết định kê biên, trả lại quyền lợi cho bên mua là được. Quan điểm thứ hai thì cho rằng tòa vẫn có thể thụ lý vụ án. Bởi trên thực tế, người mua vẫn chưa có toàn quyền đối với tài sản đã mua. Người bán vẫn còn có quyền nhất định với tài sản. Tòa sẽ thụ lý và hỏi hai bên xem có ý định tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nữa hay không. Nếu đồng ý thì tòa công nhận hợp đồng, yêu cầu hai bên tiếp tục thực hiện những khoản còn lại. Còn hai bên không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng thì tòa bác. Tuy nhiên, điều kiện thụ lý là tài sản đã được giao cho bên mua. Quan điển thứ ba lại bảo bản chất của vụ kiện này là tranh chấp quyền sử dụng đất chứ không phải là tranh chấp hợp đồng. Hợp đồng mua bán chỉ là phần ngọn. Do vậy, muốn được tòa thụ lý, hai bên phải ra hòa giải lại ở địa phương theo thủ tục về tranh chấp quyền sử dụng đất đai… Nếu hòa giải không thành thì khởi kiện, lúc này tòa sẽ xem xét thụ lý. Hướng giải quyết? Đòi lại sính lễ? TAND huyện Giá Rai (Bạc Liêu) đã buộc gia đình cô N. phải trả lễ vật gần 23 chỉ vàng, 10 triệu đồng tiền mặt cho gia đình anh P. vì đám cưới của hai người bị hủy, không diễn ra như dự kiến. Gia đình cô N. bức xúc cho rằng tòa tuyên như vậy là sai sót vì chưa xét đến phong tục, tập quán và phẩm giá của phụ nữ. Theo hồ sơ, năm 19 tuổi, qua mai mối, cô N. gặp anh P. Sau đó hai gia đình đồng ý định ngày cưới cho đôi trẻ. Lúc đám hỏi, nhà trai mang sính lễ đến nhà gái theo đúng phong tục địa phương gồm 13,5 chỉ vàng 24K; 8,9 chỉ vàng 18K; 10 triệu đồng tiền mặt và mâm quà trà rượu. Ai nấy đều vui vẻ mong đến ngày thành hôn. Tuy nhiên, lúc chuẩn bị đám cưới, gia đình hai bên nảy sinh mâu thuẫn gay gắt. Đám cưới đã không diễn ra đúng như lời tuyên bố của nhà trai. Chỉ có điều là sau đó cha chú rể lại kiện ra TAND huyện Giá Rai, yêu cầu phía nhà gái phải trả lại toàn bộ lễ vật. Xử sơ thẩm, TAND huyện Giá Rai đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc gia đình cô N. phải hoàn trả đầy đủ lễ vật. Theo tòa, đây là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Nguyên đơn dùng số tiền, vàng trên làm lễ vật tặng nhà gái là để đạt điều kiện hai trẻ cưới nhau. Thực tế không có đám cưới, nhà trai đòi lại lễ vật là hợp lý, cần chấp nhận. Sau phiên xử, gia đình cô N. cho rằng quyết định của tòa chưa thấu lý đạt tình khi chưa xem xét vì sao có việc hủy hôn. Tòa cũng đã không xác định được phần lỗi của nguyên đơn để buộc họ phải đền bù một phần vật chất. Làm hợp đồng mua bán xe đã mất Ngày 24-3-2011, ông T.K.N. (ngụ quận 8, TP.HCM) đi xe gắn máy hiệu Honda SHi125 tới nhà hàng Kichi Kichi tại khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, quận 7 ăn tối cùng gia đình. Nhân viên bảo vệ nhận giữ xe và đưa thẻ, thế mà chỉ khoảng một giờ sau, khi ông ra lấy xe thì được thông báo chiếc xe đã không còn trong bãi. Lỗi mất xe đã được xác định thuộc về công ty bảo vệ. Sau nhiều lần thương lượng, cuối tháng 5-2011 chủ nhà hàng đã đồng ý bồi thường cho ông N. nhưng chỉ theo số tiền ghi trên hóa đơn mua xe. Chiếc xe SHi125 ông N. mua giá khoảng 160 triệu đồng chỉ mới hơn một tháng trước. Tuy nhiên, do cửa hàng bán xe chỉ xuất hóa đơn giá 110 triệu đồng nên ông N. chỉ được nhà hàng bồi thường 117 triệu đồng (tính cả biên lai thuế và phí đăng ký biển số). Ngoài ra, nhà hàng yêu cầu ông N. phải giao giấy đăng ký xe (cà vẹt), đồng thời làm hợp đồng bán chiếc xe trên cho nhà hàng. Đơn vị này lý giải rằng do đã nhận bồi thường nên ông N. đương nhiên không còn quyền sở hữu đối với chiếc xe đã mất, mà quyền sở hữu phải thuộc về họ. Ông N. đã làm giấy bán xe. Hỏi: Giao dịch trên là đúng hay sai? Tại sao? “liệt sĩ” về làng. Vợ ông Luận đang ngồi bên giường chăm sóc “liệt sĩ” về làng. Cuộc đoàn viên trong nước mắt với gia đình của một chiến sĩ quân tình nguyện tưởng đã hy sinh trên chiến trường K sau 30 năm bặt tin. Nỗ lực của ông tổng lãnh sự. Mấy mươi năm qua, người đàn ông trạc tuổi trung niên đẩy xe bán nước mía dạo trên đường phố Siêm Riệp (Campuchia) chỉ mang máng nhớ mình tên Lê Đức Luận, là người Việt, quê nhà ở tỉnh Hải Hưng (nay là Hải Dương và Hưng Yên). Nhưng câu chuyện tình cờ một ngày đầu hè năm 2009 đã đưa cả trí nhớ và thể xác người đàn ông Việt ấy về quê cũ sau 30 năm bặt tin. 30 năm lưu lạc Năm 1974, chàng thanh niên Lê Đức Luận lên đường nhập ngũ, chiến đấu ở chiến trường phía Nam. Năm năm sau, anh nhập vào đoàn quân tình nguyện thuộc Trung đoàn 757, Sư đoàn 317 sang chiến trường K. Đến năm 1980, anh mới về phép thăm gia đình, đứa con trai ngày anh đi bộ đội mới vừa được sinh ra nay đã đi học lớp 1. “Ai ngờ lần về phép đầu tiên trong đời quân ngũ phải 30 năm sau mới có lần về tiếp theo” - ông Luận hồi tưởng. Quay lại chiến trường K sau lần về phép, trong một lần hành quân, chiếc xe chở anh Luận bị tàn quân Pol Pot phục kích. Đồng đội trên xe đều hy sinh, riêng anh dính vết thương vào đầu và ngất đi. Quân Pol Pot ngỡ rằng anh đã chết nên bỏ đi và anh may mắn được người dân Siêm Riệp cứu sống. Nhưng khi hồi tỉnh, trí nhớ hầu như bị xóa sạch khiến anh không thể nhớ được địa chỉ gia đình, đơn vị trong khi giấy tờ, đồ đạc đã bị quân Pol Pot lấy hết. Đề phòng bị rơi vào tay tàn quân Pol Pot, người dân đưa anh về nhà và cải trang thành người Campuchia, chăm sóc cho vết thương bình phục. Thế nhưng ba năm sau ngày bị thương, trí nhớ của anh bộ đội tình nguyện vẫn chưa phục hồi. Năm 1984, anh lấy vợ người Khmer và có hai con gái. Vợ chồng anh sống bằng nghề bán nước mía dạo, bữa đói bữa no nên đôi khi mang máng nhớ về quê cũ nhưng 25 năm từ ngày có gia đình anh chưa lần dám nghĩ đến chuyện đi tìm vì không có tiền. Ông Luận bồi hồi: “Cứ khi nào tỉnh táo là lại muốn đi tìm quê nhưng lúc trái gió trở trời, vết thương tái phát thì lại quên hết. Thời gian đầu sống trong vùng rừng núi cả chục năm, gần quên cả tiếng Việt. Mơ ước được về lại quê nhà cứ lụi dần, lụi dần”. Trung đoàn 757 - đơn vị của ông Luận sau thời gian không tìm thấy xác đồng đội đã làm thủ tục đề nghị công nhận liệt sĩ. Và vào năm 1992, gia đình ông ở thôn Hùng Trì, xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, Hưng Yên đã được nhà nước trao lại Huân chương Chiến công hạng Ba, gia đình được trao bằng Tổ quốc ghi công, chính thức xác nhận ông Luận là liệt sĩ. Tấm bằng Tổ quốc ghi công tại gia đình ông Luận. Nỗi khắc khoải chập chờn về quê nhà tưởng sẽ lụi tàn thì đầu tháng 6-2009, trong một lần đi khám sức khỏe tại một phòng bệnh của bác sĩ người Việt, ông Luận tình cờ gặp ông tổng lãnh sự Việt Nam tại Battambang (Campuchia) Trần Công Thịnh. Cùng ngồi ngoài phòng chờ, nghe thấy ông Thịnh nói điện thoại bằng tiếng Việt, ông Luận lân la bắt chuyện: “Tôi cũng là người Việt...”. Nghe chuyện một hồi, ông Thịnh hiểu ra quãng đời lưu lạc của anh lính tình nguyện. “Tôi tự hứa với bản thân là phải bằng mọi cách giúp anh ấy tìm lại quê cũ. Đó không phải là trách nhiệm của một nhân viên ngoại giao nữa mà là trách nhiệm của người Việt với nhau khi xa quê” - ông Thịnh nói. Thế nhưng tất cả manh mối mà vị tổng lãnh sự có chỉ là cái tên của cha người lưu lạc ở Hải Hưng và thời điểm chiếc xe của anh lính tình nguyện bị quân Pol Pot phục kích. Tra cứu danh sách các liệt sĩ đã hy sinh tại Campuchia, ông Thịnh đã lần ra được đơn vị, quê quán của ông Luận. Nhưng chưa hết nhiêu khê, địa chỉ ngày ấy so với bây giờ đã thay đổi, ông Thịnh lại phải nhờ người ở Việt Nam đi xác minh, ráp nối thông tin. Và cuối cùng vị tổng lãnh sự Việt Nam tại Battambang đã có được lý lịch của ông Luận sau hơn một tháng dò tìm từ nhiều nguồn. Anh Lê Hữu Luân, con trai duy nhất của ông Luận, nói đó là “niềm vui như sét đánh” với gia đình: “Trưa 1-8, tôi chạy như điên từ cơ quan về nhà khi nhận được cú điện thoại báo tin cha tôi còn sống và đang lưu lạc ở Campuchia. Mẹ tôi lăn đùng ra bất tỉnh vì bất ngờ. Chiều hôm đó, gia đình còn gọi điện thoại cả chục lần sang Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Battambang hỏi đi hỏi lại mới dám tin đó là sự thật”. Một tuần sau ngày nhận được tin vui, anh Luân cùng một người chú đã có mặt ở Campuchia. Cuộc hội ngộ diễn ra bên lề đường Siêm Riệp, cạnh chiếc xe bán nước mía dạo mà ông Luận đã còng lưng đẩy suốt mấy mươi năm xa quê. Và hơn một tuần sau đó, ông Luận được con trai đưa về quê nhà đoàn tụ. Gặp cả gia đình ông Luận chỉ vài ngày sau khi ông đoàn tụ, trong ngôi nhà mà bàn thờ liệt sĩ Lê Viết Luận và bằng Tổ quốc ghi công vẫn chưa kịp gỡ xuống, bà Phạm Thị Nhài - vợ ông Luận xúc động: “Từ khi con trai sang đón ông nhà tôi về, không đêm nào tôi ngủ được. Ông ấy đã bằng xương bằng thịt ngồi trước mặt đây mà đôi lúc cứ phải tự cấu vào tay mình mới tin là thực...”. Đầu vẫn còn đau, trí nhớ vẫn chập chờn nhưng ngồi lại giữa quê hương, trong hơi ấm của gia đình, ông Luận nói ông đã dần mường tượng lại được những người thân của mình. “Bà con ai cũng cố gắng kể lại những kỷ niệm cũ, những cái tên cũ. Chỉ biết cám ơn mọi người rồi rớm nước mắt vì niềm vui đến bất ngờ quá” - ông Luận bồi hồi. Xử lý thế nào? Tranh chấp “tách” và “cốc” Cái tách và cái cốc màu đỏ trên bao bì sản phẩm của hai công ty bị cho là sẽ gây nhầm lẫn. Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương đã phạt Công ty TNHH Gold Roast Việt Nam (Gold Roast) do dùng hình cái tách màu đỏ trên bao bì sản phẩm cà phê gây nhầm lẫn với cái cốc của một công ty khác. Tòa án tỉnh này cũng cho rằng Gold Roast đã vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Hiện công ty này đang kháng cáo phán quyết trên của tòa. Theo hồ sơ, trước năm 2006, Công ty Société des Produits Nestlé (Nestlé) đã tung ra thị trường sản phẩm cà phê sữa uống liền mang hình cái cốc đỏ có viền vàng. Ngay sau đó, công ty này phát hiện Gold Roast cũng có loại sản phẩm tương tự có in hình cái tách đỏ trên bao bì. Tháng 10-2006, Nestlé đề nghị Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) thẩm định xem nhãn hiệu hình cái tách đỏ của Gold Roast có vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của Nestlé hay không. Nửa tháng sau, Cục phúc đáp Gold Roast sử dụng cái tách đỏ là gây nhầm lẫn với cái cốc đỏ đã được bảo hộ của Nestlé. Dựa vào kết luận trên, Nestlé yêu cầu Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ xử lý hành vi vi phạm của Gold Roast. Vì không thuộc thẩm quyền nên nơi này đã chuyển hồ sơ cho Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Dương xử lý. Cuối năm 2007, Thanh tra Sở kết luận Gold Roast đã có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đầu năm 2008, chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương đã phạt Gold Roast 100 triệu đồng và buộc công ty này “loại bỏ các yếu tố vi phạm” trên bao bì sản phẩm cà phê sữa uống liền. Cho rằng bị phạt oan và để chứng minh mình không sao chép hình ảnh trên của Nestlé, Gold Roast liền nhờ Viện Nghiên cứu sở hữu trí tuệ (thuộc Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) thẩm định lại. Một thời gian sau, viện này kết luận dấu hiệu tách cà phê màu đỏ trên sản phẩm của Gold Roast không có khả năng gây nhầm lẫn với cốc đỏ của Nestlé. Bởi theo viện này, người tiêu dùng nói rằng hình dáng giữa cái cốc và cái tách khác nhau (một cái hình trụ tròn, cái kia không tròn đều; một cái cao, một cái thấp...) cộng thêm các yếu tố chuyên môn nữa nên khó có thể gây ra sự nhầm lẫn. Có được kết luận của Viện Nghiên cứu sở hữu trí tuệ, Gold Roast đã kiện quyết định xử phạt của chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương ra Tòa hành chính. Gold Roast còn dẫn giải thêm từ năm 1996, sản phẩm của công ty này đã được nhập vào Việt Nam từ Singapore, có sử dụng hình ảnh cái tách màu đỏ trên bao bì. Đến năm 2001, Gold Roast có nhà máy sản xuất tại Việt Nam và tiếp tục sử dụng hình ảnh này. Nestlé chỉ đăng ký bảo hộ hình ảnh cái cốc đỏ tại Việt Nam từ năm 2004. Vì thế, Gold Roast sử dụng hình ảnh cái cốc đỏ là ngay tình, không hề vi phạm quyền sở hữu trí tuệ như văn bản của Cục Sở hữu trí tuệ. Gold Roast còn bảo nếu cho rằng công ty này vi phạm, tỉnh cũng không được quyền phạt tiền vì thời hiệu phạt tiền đã hết (vì họ sử dụng hình ảnh này gần 10 năm). Thụ lý vụ án, TAND tỉnh Bình Dương đã trưng cầu giám định vì kết luận của Cục Sở hữu trí tuệ và Viện Nghiên cứu sở hữu trí tuệ không phải là văn bản giám định. Đầu tiên, tòa trưng cầu ở một viện nghiên cứu nhưng nơi này bảo rằng mình không có chức năng giám định vụ việc trên. Tiếp đến, tòa nhờ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh nhưng nơi này cũng “bó tay” vì nằm ngoài khả năng giám định của cấp tỉnh. Tòa nhờ Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) thì viện này cũng lắc đầu do không thuộc lĩnh vực của mình. Không có cơ quan nào giám định, trong khi hai cơ quan chuyên môn có ý kiến khác nhau, tòa án tỉnh quyết định lấy kết luận của Cục Sở hữu trí tuệ (cho rằng Gold Roast vi phạm) để làm căn cứ xử lý. Tòa nhận định công văn của Cục là kết luận về hành vi vi phạm của Gold Roast nên chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương xử phạt Công ty Gold Roast là có căn cứ. Vì thế, tòa bác đơn kiện, giữ nguyên quyết định xử phạt của chủ tịch tỉnh. Tạm đình chỉ vụ án thiếu cơ sở Tòa căn cứ vào thông báo của cơ quan công an gửi cho đương sự để tạm đình chỉ vụ án. Cơ quan công an chưa thụ lý điều tra vụ án và cũng chưa thông báo cho tòa cấp sơ thẩm thì tòa không được tạm đình chỉ vụ án. Tháng 6-2008, Công ty N. ở TP.HCM ký hợp đồng góp vốn với Công ty Đ. ở TP Cần Thơ để xây dựng công trình san lấp một dự án cảng… Hứa mà không trả Theo trình bày của Công ty N., khi hợp đồng hết hạn, Công ty Đ. còn nợ công ty gần 39 tỉ đồng tiền vốn, tiền cát... Hai bên đã nhiều lần ngồi lại bàn bạc, thống nhất Công ty Đ. sẽ trả 22 tỉ đồng tiền vốn góp. Hơn 10 tỉ đồng còn lại sẽ trả trong vòng bốn tháng. Riêng khoản nợ tiền cát hẹn trả chậm nhất là ngày 15-1-2009. Thế nhưng sau nhiều hứa hẹn trả, Công ty Đ. vẫn không thanh toán tiền nợ. Tháng 4-2009, Công ty N. khởi kiện Công ty Đ. ra tòa. Tuy nhiên, sau đó hai bên thống nhất sẽ tự hòa giải nên Công ty N. rút đơn kiện. Khi Công ty N. rút đơn, Công ty Đ. lại không chịu thanh toán tiền. Tháng 6-2010, Công ty N. lại tiếp tục khởi kiện. Năm tháng sau, Công ty N. bất ngờ nhận được quyết định “tạm đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại” của TAND TP Cần Thơ vì xét thấy cần đợi kết quả giải quyết của Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ. Nhận được quyết định của tòa, Công ty N. tìm hiểu thì biết được Công ty Đ. làm đơn tố giác tổng giám đốc Công ty N. có hành vi chiếm đoạt tài sản của Công ty Đ. thông qua việc hợp tác gói thầu... Ngày 13-10-2010, Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ gửi thông báo về Công ty Đ. cho biết đã nhận được đơn và đang tiến hành điều tra xác minh. Có được thông báo này, Công ty Đ. gửi cho TAND TP Cần Thơ yêu cầu tạm đình chỉ vụ án và được tòa này chấp nhận. Công ty N. cho rằng tòa căn cứ vào giấy thông báo của cơ quan công an cho đương sự để ra quyết định tạm đình chỉ là sai quy định. Công ty đã kháng cáo. Tạm đình chỉ là đúng hay sai? Không tòa nào chịu xử Tháng 7-2007, gia đình ông C. thế chấp tài sản cho Công ty D. để vay ít tiền. Sau đó, Công ty D. đề nghị ông C. dùng giấy tờ đã thế chấp cho công ty bảo lãnh cho công ty vay vốn tại ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình lập hợp đồng bảo lãnh thế chấp thì bên được nhận bảo lãnh lại là Công ty H. Trên cơ sở đó, Công ty H. đã lập hợp đồng vay vốn. Ít lâu sau, ông C. phát hiện nên kiện ngân hàng ra TAND quận 1 (TP.HCM) để hủy hợp đồng bảo lãnh vay vốn trên. Sau khi nghiên cứu vụ án, TAND quận 1 cho rằng hợp đồng dân sự về thế chấp tài sản có liên quan chặt chẽ đến hợp đồng vay vốn kinh doanh giữa ngân hàng với Công ty H. Tranh chấp hợp đồng vay vốn lại thuộc thẩm quyền xét xử của TAND TP.HCM nên TAND quận 1 đã chuyển vụ án cho TAND TP xử lý. Ngày 13-10-2008, TAND TP thụ lý vụ án. Nhưng sau đó, tòa nhận định ông C. là một cá nhân, khởi kiện ngân hàng là một pháp nhân về hợp đồng thế chấp tài sản bảo lãnh cho một hợp đồng vay vốn khác mang tính chất lợi nhuận. Nhưng bản thân hợp đồng thế chấp lại không mang mục đích lợi nhuận. Cạnh đó, giao dịch thế chấp của ông C. không phải là hoạt động kinh doanh thương mại. Hợp đồng vay giữa Công ty H. với ngân hàng cũng không xảy ra tranh chấp nên chưa phát sinh tranh chấp về kinh doanh thương mại. Từ những lý do đó, cuối năm 2008, TAND TP đã chuyển trả vụ kiện lại cho TAND quận 1. Không đồng ý, ngày 20-5-2009, TAND quận 1 tiếp tục chuyển trả lại hồ sơ cho TAND TP với lý do tương tự như đã nêu trước đó. Đòi tài sản là tranh chấp gì? Theo đơn khởi kiện của ông Đ., trước đây ông đã mua hai mảnh đất có trồng cà phê và cây ăn trái. Trên hai mảnh đất còn có hai ngôi nhà gỗ, một ngôi nhà tạm và hai giếng nước. Sau đó, vì phải đi xa làm việc, ông đã nhờ gia đình người chị trông coi nhà cửa, vườn tược. Đầu năm 2007, ông nghe tin gia đình người chị đã đăng ký quyền sử dụng đất và tặng mảnh vườn cho con gái nên đã đòi gia đình người chị phải trả lại. Do vậy, ông đã khởi kiện ra TAND huyện Krông Năng (Dăk Lăk) yêu cầu gia đình người chị phải trả lại số tài sản trên, bao gồm quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án huyện xác định tranh chấp trên là “tranh chấp quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, khi xét xử sơ thẩm (lần một), tòa lại nhận định đây là “tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất”. Sau khi bị kháng cáo, cấp phúc thẩm nhận định trong quyết định đưa vụ án ra xét xử là “tranh chấp quyền sử dụng đất”. Thế nhưng khi ra bản án, tòa lại xác định là “tranh chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất”. Bản án phúc thẩm này đã hủy án sơ thẩm để đưa về cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung. Án quay về tòa án huyện thì một lần nữa, Thẩm phán thụ lý cho rằng tranh chấp này là “tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản” chứ không phải là tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Còn trong một số văn bản gửi cho cơ quan chức năng về những vấn đề liên quan đến vụ án, tòa lại nhận định đây là tranh chấp “kiện đòi lại tài sản”. Tranh chấp giao toàn bộ tiền bồi thường Năm 1996, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM xử phúc thẩm vụ tranh chấp thừa kế giữa ông M. và sáu người em ruột. Tòa tuyên hai em út của ông M. mỗi người được hưởng một nửa căn nhà của cha mẹ để lại (ở tỉnh Hậu Giang). Ông M. và bốn người em khác sẽ được hai em út thối lại cho mỗi người hơn 35 triệu đồng, tương đương với phần nhà được thừa kế. Án tuyên xong nhưng từ đó đến nay không có ai trong số anh em ông M. đòi thi hành án cả. Trên thực tế, căn nhà này ông M. vẫn quản lý một nửa, nửa còn lại thì hai em út của ông quản lý. Nhà cũng chưa được chuyển tên sang hai em út của ông. Mọi chuyện bắt đầu trở nên rắc rối khi căn nhà bị nhà nước giải tỏa. UBND tỉnh Hậu Giang căn cứ vào bản án phúc thẩm đã giao hơn 1 tỉ đồng tiền bồi thường căn nhà trên cho hai em út và buộc ông M. phải ra khỏi nhà để bàn giao mặt bằng. Ngay lúc đó, ông M. làm đơn khiếu nại. Ông cho rằng khi bản án phúc thẩm có hiệu lực thì không ai làm đơn yêu cầu thi hành án. Căn nhà này cũng chưa sang tên cho hai người em. Ông là người đóng thuế nhà từ năm 1996 đến nay. Hai người em cũng chưa đưa tiền cho ông theo bản án phúc thẩm tuyên. UBND tỉnh giao toàn bộ số tiền bồi thường cho hai người em là gây thiệt thòi cho ông. UBND tỉnh Hậu Giang giao toàn bộ tiền bồi thường căn nhà cho hai người em ông M. theo bản án liệu có căn cứ hay không? GIẢI QUYẾT THẾ NÀO? Theo đơn khởi kiện của Thi Quan gửi TAND TP.HCM hồi tháng 3, đầu năm 2008, Thi Quan có mua bảo hiểm của Bảo Minh cho chiếc ôtô Mercedes năm chỗ của công ty trong thời gian một năm và đã đóng đủ tiền bảo hiểm gần 15 triệu đồng. Tối 11-7-2008, giám đốc Thi Quan đến một nhà hàng trên đường Tân Phước, phường 6 (quận 10) ăn uống cùng bạn bè. Một lúc sau ông này được tài xế báo cho biết là chiếc xe đã bị mất cắp. Theo lời tài xế, sau khi giám đốc Thi Quan vào nhà hàng, tài xế cho xe cặp sát lề đường trước nhà hàng, xuống xe khóa cửa rồi đi bộ ra nơi khác ăn hủ tiếu, lúc về thì thấy xe đã biến mất. Công an phường 6 đến lập biên bản việc mất cắp xe, có nhân viên bảo vệ nhà hàng xác nhận trước đó có nhìn thấy chiếc xe trên. Hôm sau, Công an huyện Đức Hòa (Long An) phát hiện ra chiếc Mercedes này nằm trơ trọi giữa một cánh đồng mía nhưng đã bị cậy phá lấy cắp hàng loạt phụ tùng như đèn pha, đèn xi nhan, huy hiệu, kính chiếu hậu, đèn sau, vỏ lốp, đồ nghề mở vỏ, nắp nhớt xăng... Một tuần sau, Công an quận 10 đã lập biên bản trao trả xe cho Thi Quan. Sau đó, Thi Quan yêu cầu Bảo Minh chi trả bảo hiểm nhưng đơn vị bảo hiểm cho rằng trường hợp này không thuộc phạm vi bảo hiểm nên từ chối. Không đồng ý, Thi Quan đã khởi kiện yêu cầu Bảo Minh phải thanh toán khoảng 174 triệu đồng, bao gồm chi phí giám định thiệt hại, chi phí thay phụ tùng bị mất, phí lưu bãi, chi phí kéo xe từ Long An về Công an quận 10... Phía Bảo Minh xác nhận Thi Quan có mua bảo hiểm cho chiếc Mercedes năm chỗ, bao gồm các loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện (trong đó có trường hợp bảo hiểm mất cắp toàn bộ do cướp có vũ trang, mất ở bãi giữ xe công cộng...). Bảo Minh cũng xác nhận có nhận được thông báo của giám đốc Thi Quan và chủ xe về việc xe bị mất cắp vào tối 11-7-2008. Tuy nhiên theo Bảo Minh, việc tổn thất mất cắp các bộ phận mà Thi Quan kiện đòi bảo hiểm không phải là trường hợp mất cắp toàn bộ xe do cướp có vũ trang hay mất ở bãi giữ xe công cộng nên không thuộc phạm vi bảo hiểm. Từ đó, Bảo Minh đã đề nghị tòa bác yêu cầu của nguyên đơn. Xử sơ thẩm hồi cuối tháng 7, TAND TP chỉ nhận định ngắn gọn là theo hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới giữa hai bên thì việc mất cắp xe của phía Thi Quan không nằm trong phạm vi bảo hiểm. Từ đó, tòa cho rằng Thi Quan khởi kiện đòi bồi thường là không có căn cứ nên bác yêu cầu và buộc Thi Quan phải chịu toàn bộ án phí dân sự. Sau đó, phía Thi Quan đã kháng cáo, cho rằng trong trường hợp này phía đơn vị bảo hiểm phải thực thi nghĩa vụ chi trả bảo hiểm vì rõ ràng xe ôtô của công ty đã bị mất cắp và đã bị thiệt hại. Truy nhận người đã chết là cha Một cặp chị em song sinh hơn 27 tuổi kiện xin xác nhận cha. Tháng 4-2009, hai chị em song sinh N. và H. đã nộp đơn đến TAND tỉnh Tây Ninh xin xác định ông S. là cha. Theo nội dung đơn, năm 1980, mẹ họ cùng ông S. không làm lễ cưới hỏi nhưng sống công khai như vợ chồng. Khi người mẹ mang thai họ thì giữa bà với ông S. phát sinh mâu thuẫn nên hai bên sống riêng. Đến năm 1983, họ chào đời, sống với mẹ và hoàn toàn không biết đến mặt cha. Người mẹ giận ông S. nên không chịu đi làm giấy khai sinh. Đến lúc phải khai sinh cho con để đi học, khai sinh của anh H. thì bà để trống tên cha, còn khai sinh của chị N. thì bà lấy họ ngoại và tên người khác ghép lại. Khoảng năm 2001-2002, bà mới nói cho hai chị em N. và H. biết ông S. là cha ruột của họ. Biết chuyện, chị em họ vẫn thường qua thăm nom cha và ông S. cũng không hề ngăn cản. Ông còn thường cho tiền, hỏi thăm đời sống của hai chị em. Đến cuối năm 2007, ông S. bệnh chết, hai chị em N. và H. đến xin chịu tang thì bị các cô chú ngăn cản. Vì thế, hai chị em họ đã nộp đơn ra tòa, yêu cầu xác định ông S. là cha của họ với chứng cứ là lời khai của người mẹ cùng một số nhân chứng đang sống tại địa phương. Quá trình giải quyết án, hai chị em N. và H. đã yêu cầu xin quật mộ ông S. thu thập mẫu ADN để giám định huyết thống. Nhưng phía bị đơn đồng loạt phản đối. Họ nói chưa từng nghe hay biết gì về mối quan hệ giữa mẹ của hai chị em N. và H. với ông S. Lúc còn sống, ông S. chưa từng lần nào thừa nhận hai chị em N. và H. là con ruột; ngược lại, hai chị em N. và H. cũng chưa lần nào yêu cầu xác định ông S. là cha, nay ông S. đã mất mới yêu cầu là không thể chấp nhận. Xử sơ thẩm hồi tháng 5, TAND tỉnh Tây Ninh phân tích: Nhà ông S. và nhà người mẹ của hai chị em N. và H. chỉ cách nhau khoảng 2 km. Suốt nhiều năm ông S. không có con, chỉ ở chung với một người vợ chính thức (đã mất từ năm 2005). Tuy nhiên, giữa ông S. và hai chị em N. và H. không có sự qua lại, chăm sóc nhau. Cạnh đó, ông S. khi còn sống không chính thức thừa nhận hai chị em N. và H. là con ruột. Khi mất, ông cũng không để lại di chúc hay thừa nhận miệng rằng họ là con ông. Mặt khác, giấy khai sinh của hai chị em N. và H. không thể hiện ông S. là cha của họ. Dù các nhân chứng đều khẳng định họ là con ruột của ông S. nhưng chỉ là sự suy đoán không có căn cứ, không phải là chứng cứ pháp lý để xem xét. Ngoài ra, suốt 24 năm (từ 1983 đến khi ông S. mất năm 2007), phía nguyên đơn sinh sống cùng địa phương nhưng không yêu cầu xác định ông S. là cha, nay lại yêu cầu khai quật mộ để giám định ADN là không thể chấp nhận bởi không phù hợp, trái quy luật xã hội, không được bên bị đơn đồng tình. Từ đó, TAND tỉnh Tây Ninh đã bác yêu cầu của hai chị em N. và H. Hai chị em N. và H. kháng cáo. Theo họ, nếu cơ quan tố tụng không cho khai quật mộ ông S. để lấy ADN giám định thì họ xin được xác định huyết thống thông qua ADN của các anh em ông S. Có mặt tại phiên phúc thẩm, mẹ của hai chị em N. và H. trình bày rằng chỉ vì ngày đó bà hận một câu nói của ông S. mà không cho các con biết ông S. là cha ruột. Khi hai chị em N. và H. lớn lên, mọi người nói ra nói vào, bà mới cho con biết để cha con còn nhìn nhận nhau. Giờ đây, ông mất rồi, các con chỉ muốn thờ phụng cha mà bên bị đơn không thừa nhận nên bà quyết làm rõ trắng đen. Ủy ban huyện không trả lời Năm 2006, ông Cương (huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) được mẹ ủy quyền khởi kiện ông Cửa ra tòa tranh chấp về quyền sử dụng đất. Theo đơn ông Cương, hơn chục năm trước, cha mẹ ông đã cho ông Cửa mượn một phần đất của gia đình để cất nhà ở tạm do gia đình ông Cửa khó khăn. Năm 2004, ông Cửa được cấp nhà tình thương và được phép xây dựng trên đất của gia đình ông Cương. Gia đình ông Cương không đồng ý nên khởi kiện. Tuy nhiên, quá trình hòa giải, ông Cửa cho rằng phần đất này ông đã được bố ông Cương cho hẳn chứ không phải cho ở nhờ hay cho mượn gì cả nên ông không trả. Xử sơ thẩm, TAND huyện Đức Hòa đã bác yêu cầu của ông Cương, đồng ý cho ông Cửa sử dụng phần đất trên để làm nhà. Tuy nhiên, cấp phúc thẩm đã tuyên ngược lại buộc ông Cửa phải trả phần đất trên cho gia đình ông Cương. Nhận bản án, ông Cửa làm đơn khiếu nại... Tháng 6-2009, hai bản án sơ và phúc thẩm bị giám đốc thẩm, bị tuyên hủy để điều tra, xác minh làm rõ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Cương (gồm cả phần đất tranh chấp). Mặt khác, quyết định giám đốc thẩm nhận định phần đất tranh chấp lại nằm trên phần đất của ông Cương chứ không phải trên đất của cha mẹ ông nên cần phải làm rõ để các cấp tòa ra phán quyết phù hợp. Sau khi nhận được quyết định giám đốc thẩm, TAND huyện Đức Hòa xử sơ thẩm lại, đã gửi văn bản yêu cầu UBND huyện này phúc đáp một số vấn đề liên quan đến vụ án như việc UBND huyện ra quyết định cho ông Cửa làm nhà trên phần đất bố ông Cương là đúng hay sai; phải xác định chính xác vị trí đất đang tranh chấp để tòa làm cơ sở giải quyết… Tuy nhiên, tòa đã chờ mãi mà vẫn không thấy ủy ban huyện phúc đáp. Đầu năm, tòa đành phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trên chờ đến khi nào UBND huyện trả lời mới đưa vụ việc ra xét xử lại. XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN Đêm 22-9-1987, Bùi Văn Mãnh bị Công an tỉnh Tiền Giang bắt, giam giữ và điều tra về hành vi giết bà Phạm Thị Ngà để cướp của. Vụ án xảy ra hơn một năm trước đó, bà Ngà chính là người mẹ kế đã nuôi dưỡng và dựng vợ gả chồng cho ông Mãnh. Ngày 1-12-1988, phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xử Bùi Văn Mãnh 16 năm tù về hai tội giết người và cướp tài sản công dân. Phiên phúc thẩm hoãn đi hoãn lại tới bảy lần, ngày 10-12-1991 TAND tối cao tại TP.HCM tuyên Bùi Văn Mãnh không phạm tội, trả tự do ngay tại tòa. Ông Bùi Văn Mãnh đã nộp đơn tới TAND huyện Gò Công Tây, Tiền Giang, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm tại phiên xử ông Mãnh kiện TAND tỉnh. Theo luật định TAND Tiền Giang sẽ xét xử phúc thẩm vụ án mà họ chính là bị đơn. Bùi Văn Mãnh cho biết, vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi TAND tỉnh Tiền Giang bồi thường hơn 1,2 tỷ đồng vì tuyên ông 16 năm tù oan. Tại phiên sơ thẩm, TAND huyện Gò Công Tây tuyên nguyên đơn thua kiện, chỉ chấp nhận tiền bồi thường hơn 146 triệu đồng cho ông Mãnh - đúng bằng mức TAND tỉnh đưa ra. Theo ông Mãnh, ông sẽ không chấp nhận bất kỳ thẩm phán nào của TAND tỉnh Tiền Giang ngồi ghế xét xử trong phiên phúc thẩm vì không đảm bảo yêu cầu. Một thẩm phán cho biết, nếu yêu cầu của ông Mãnh được chấp nhận, TAND Tối cao sẽ biệt phái một số thẩm phán đến TAND tỉnh Tiền Giang để xét xử. vụ kiện đòi số tiền kỷ lục - 1.200 tỷ đồng Theo đơn khởi kiện, ngày 25/10/2009, ông Ly Sam (60 tuổi, Việt kiều Mỹ) tham gia trò chơi có thưởng tại máy số 13 của Câu lạc bộ Palazzo, Công ty Liên doanh Đại Dương (Khách sạn Sheraton Sài Gòn). Sau một lúc chơi, máy báo kết quả ông Ly Sam trúng thưởng số tiền hơn 55,5 triệu USD. Lúc này, vị khách liền yêu cầu quản lý của Câu lạc bộ ký vào biên bản ghi nhận kết quả nhưng ông này không ký mà hứa trả thưởng trong vòng 3 ngày. Thấy vậy, ông Ly Sam liền thu lại hình ảnh của máy trò chơi và lập biên bản ghi nhận việc trúng thưởng với nhiều người ký tên làm chứng. Qua thương lượng không thành, ngày 30/10/2009, ông Ly Sam gửi yêu cầu trả thưởng nhưng không có kết quả. Gần 1 tháng sau, ông này tiếp tục gửi thư thông báo cho Tổng giám đốc Công ty Liên doanh Đại Dương phải có trách nhiệm với kết quả trúng thưởng trên. Sau đó, đại diện Công ty TNHH tư vấn Ewarton (thuộc Công ty Liên doanh Đại Dương) thừa nhận kết quả trúng thưởng hơn 55,5 triệu USD nhưng không trả thưởng cho khách vì cho rằng “nguyên nhân dẫn đến sự việc là do máy trò chơi có sự cố nên kết quả vô hiệu”. Không chấp nhận cách giải quyết trên, ông Ly Sam đã khởi kiện tại TAND quận 1, yêu cầu phía Công ty Liên doanh Đại Dương phải trả thưởng cho mình số tiền “khủng” này. Bị truy nã có được xác định mất tích? bà M. đã gửi đơn ra TAND quận X (TP.HCM) yêu cầu tuyên bố người chồng của bà mất tích. Theo bà, trước đây chồng bà cùng một số người khác thực hiện nhiều vụ cướp giật tài sản, bị công an truy bắt. Sợ phải vào tù, chồng bà đã gom sạch tài sản quý giá trong nhà rồi bỏ đi biệt tăm. Gần năm năm nay, chồng bà không hề liên lạc gì với gia đình. Hiện chồng bà vẫn đang bị truy nã. XỬ LÝ VỀ TIỀN GIẢI QUYẾT THẾ NÀO? Theo hồ sơ, Tuấn là lái xe của công ty có nhiệm vụ chở hàng giao cho các đại lý và lấy tiền hàng về nộp công ty. Chi là thủ quỹ nhận tiền từ Tuấn. Lợi dụng mối quan hệ quen biết nên nhiều lần sau khi nhận tiền thanh toán, Tuấn ôm luôn để đánh đề, tiêu xài cá nhân... Mỗi lần như thế, Tuấn nhắn tin cho Chi biết để nhờ Chi cất giấu các liên bản kê thu tiền (bản này lái xe và Chi mỗi người giữ một bản để đối chiếu). Vì tin tưởng Tuấn nên dù không được hưởng lợi gì cả Chi vẫn nghe theo. Tổng cộng lái xe này đã cùng Chi thụt két hơn một tỷ đồng của công ty. Ngoài ra, hơn 3,6 tỷ đồng mà các lái xe khác nhờ Tuấn về nộp giúp cũng bị Tuấn dùng chiêu trên cuỗm mất. Khi vụ thất thoát bị phát hiện, Chi đã đứng ra nhận là mình lấy rồi dùng tiền của gia đình trám vào. Sau đó, Tuấn buộc phải ký một giấy nhận là vay của gia đình Chi số tiền trên (khoảng 4,8 tỷ đồng) vì gia đình biết là do Tuấn chiếm đoạt. Tuy nhiên, đến thời hạn Tuấn không trả được nên gia đình Chi báo công an. Ban đầu khi phát hiện vụ án, cơ quan điều tra, VKSND TP Hà Nội xác định Tuấn và Chi phạm tội tham ô, trong đó Tuấn là chủ mưu, Chi đồng phạm do giúp sức tích cực. Tuy nhiên, sau đó hai cơ quan này đã thay đổi tội danh, tách Chi ra khởi tố, truy tố về tội cố ý làm trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng do không làm đúng các quy trình thủ tục gây thất thoát tài sản công ty. Xử sơ thẩm lần một vào cuối năm 2006, TAND TP Hà Nội đã nghiêng theo quan điểm này và phạt Chi năm năm tù tội cố ý làm trái. Giữa năm 2007, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội thấy vụ án còn nhiều mâu thuẫn cần xem xét lại để có cơ sở xử đúng người, đúng tội, tránh oan sai nên đã hủy án sơ thẩm. Điều tra lại vụ án, Công an TP Hà Nội thấy rằng khởi tố Chi tội tham ô mới chuẩn xác nên quay lại y như lần đầu tiên, chuyển tội danh của Chi từ cố ý làm trái thành tội tham ô tài sản. Xong hồ sơ, phía điều tra chuyển sang VKS để truy tố. Lần này, cáo trạng và luận tội của kiểm sát viên kiên quyết bảo vệ chuyện Chi phạm tội tham ô do đồng phạm với Tuấn. Chi đã giúp sức tích cực và nhờ có sự giúp sức này thì Tuấn mới có thể “ẵm” được tiền của công ty. Ngày 29-12-2008, xử sơ thẩm lần hai, TAND TP Hà Nội bác quy kết của VKS về tội tham ô. Một lần nữa tòa giữ lập trường cho rằng Chi chỉ phạm tội cố ý làm trái và chỉ phạt Chi ba năm tù so với phạt năm năm tù ở lần xử trước. Vụ án có vấn đề dân sự khá lý thú trong việc hoàn trả lại tiền cho gia đình Chi. Trước đó, Chi nhận mình lấy tiền của công ty nên đã cùng gia đình gom tiền trả lại công ty khoảng 4,8 tỷ đồng. Khi tòa xử, gia đình đề nghị phía công ty trả lại cho họ hơn 4,1 tỷ đồng sau khi đã trừ phần tiền của Chi ở trong đó. Xử sơ thẩm lần một, TAND TP Hà Nội cho rằng số tiền gia đình Chi nộp chỉ là vật chứng vụ án, không phải là tiền của Chi nên phía Vinamilk Hà Nội phải trả lại cho chủ. Ở phiên xử sơ thẩm lần hai, tòa cũng nhận định Chi và gia đình lo sợ Chi bị mất việc làm, ảnh hưởng danh dự nên gia đình mới nộp tiền khắc phục hậu quả cho Chi. Do vậy nhất thiết phía công ty phải trả lại cho gia đình Chi số tiền đang chiếm giữ. Về chuyện này, phía Vinamilk cực lực phản đối bởi theo họ đây là tiền mà Chi tự nguyện khắc phục hậu quả. Việc công ty phải trả lại cho gia đình Chi là trái với khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử. Ý KIẾN CỦA BẠN?

ĐỀ CƯƠNG LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 9-2012

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TÀI LIỆU HỌC TẬP Giáo Trình: - Đại học Luật TPHCM, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam - Tập Bài giảng Luật Tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật TPHCM. - Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật Hà nội, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2007. - Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Học viện tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2007. - Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2004. Văn bản pháp luật: - Bộ Luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb CTQG, Hà Nội năm 1998. - Bộ Luật Tố tụng dân sự của Cộng hoà liên bang Nga, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005. - Bộ Luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, bản dịch tiếng Việt, Hà Nội năm 2002. - Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. - Bộ Luật Tố tụng dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004. - Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. - Bộ luật Lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. - Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003. - Luật Hôn nhân và gia đình của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2000. - Luật Thương mại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004. - Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002. - Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. - Luật Trọng tài thương mại năm 2010. - Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. - Pháp lệnh án phí, lê phí. - Nghị quyết số 01/2005/NQ- HĐTP ngày 31/3/2005 của HĐTPTATC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS. - Nghị quyết 02/2005/NQ- HĐTP ngày 27/4/2005 của HĐTPTATC hướng dẫn thi hành một số quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS. - Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”. - Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm”. - Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4/8/2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm”. Sách - Nguyễn Văn Tiến, Bành Quốc Tuấn, Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài và việc bảo vệ quyền dân sự tại cơ quan tư pháp Việt Nam, NXB Lao động, 2011. - Đỗ Văn Đại, Nguyễn Văn Tiến, Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam về tố tụng dân sự, NXB Lao động - Nguyễn Văn Tiến, Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đại học quốc gia TPHCM năm 2010. - Nguyễn Minh Hằng, Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị- Hành chính, 2009. - Đào Văn Hội, Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004. - Kỹ năng hành nghề luật sư, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2001. - Sổ tay thẩm phán, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà nội năm 2001. Bài viết - Nguyễn Thị Vân Anh, “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp công ty của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 4/2007. - Ban biên tập, “Áp dụng khoản 2 Điều 92 BLTTDS”, Tạp chí Tòa án số 13/2006. - Phạm Công Bảy, “Áp dụng một số quy định của BLTTDS trong giải quyết các vụ án lao động”, Tạp chí Tòa án số 14/2005. - Nguyễn Công Bình, “Các quy định về chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm 2005. Đặc san về BLTTDS. - Nguyễn Việt Cường, “Người tham gia tố tụng”, Tạp chí Tòa án, số 8/2005. - Mai Ngọc Dương, “Vai trò của chế định Giám dốc thẩm trong Tố tụng Dân sự”, Tạp chí tòa án số 07 /2009. - Viên Thế Giang, “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2005. - Bùi Thị Huyền, “Thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự”, Tạp chí luật học số 1/2002. - Trần Đình Khánh, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và lao động theo BLTTDS năm 2004”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2005. - Nguyễn Ngọc Kiện, “Cần có văn bản hướng dẫn rõ quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, Số 21 tháng 11/2009. - Nguyễn Văn Khuê, “Một số ý kiến xung quanh vấn đề chứng cứ”, Tạp chí Kiểm sát số 10/2004. - Nguyễn Thị Thu Hà, “Về quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát”, Tạp chí luật học số 11/2009. - Nguyễn Minh Hằng, “Đại diện theo ủy quyền – từ pháp luật nội dung đến TTDS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2005 - Nguyễn Minh Hằng, “Tập quán – Nguồn luật hay nguồn chứng cứ”, Tạp chí Tòa án, số 5/2004. - Phan Chí Hiếu, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo BLTTDS và các ván đề đặt ra trong thực tiễn thi hành”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2005 - Trương Thị Hoa, “Cần sửa đổi quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con », Tạp chí Tòa án nhân dân, số 06 năm 2004. - Tào Thị Huệ, “Bàn về quyền khởi kiện của người đại diện hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Toà án nhân dân số 5/2010. - Trần Quang Huy, “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 17/2004. - Nguyến Quang Lộc, “Thẩm quyền của hội đồng xét xử giám đốc thẩm khi hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực theo pháp luật tố tụng- Những vấn đề cần tháo gỡ”, Tạp chí tòa án nhân dân số 21 năm 2006. - Lê Văn Luận, “Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của họ trong vụ án ly hôn”, Tạp chí Tòa án số 13/2006. - Lê Văn Luật, “Vấn đề người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của họ trong vụ án ly hôn”, Tạp chí Tòa án số 13/2006 - Tưởng Duy Luợng, “Một số quy định chung về giải quyết việc dân sự », Tạp chí Tòa án nhân dân Số 6 tháng 3 năm 2005. - Tưởng Duy Luợng, “Một số quy định chung về giải quyết việc dân sự », Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2005. - Tưởng Bằng Lương, “Một số vấn đề trong giải quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất », Tạp chí Tòa án số 4/2004. - Tưởng Duy Lượng, “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy định trong Bộ luật TTDS”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 10/2004 và số tháng 11/2004. - Đoàn Đức Lương, “Một số ý kiến về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế”, Tạp chí Kiểm sát, số 3/2006. - Tưởng Duy Lượng, “Chứng cứ và chứng minh-sự thay đổi nhận thức trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Đặc san Nghề luật số 10-2005. - Nguyễn Hồng Nam, “Vài ý kiến về thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài”, tạp chí Kiểm sát số 7/2009. - Phạm Hữu Nghị, “Về quyền định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2000. - Mai Dương Ngọc, “Tính công khai của phiên tòa Giám đốc thẩm dân sự”, Tạp chí tòa án nhân dân số 11-06/2009. - Nguyễn Thái Phúc, “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2005. - Nguyễn Thái Phúc, “Những chức năng cơ bản trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005. - Nguyễn Thị Hoài Phương, “Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp về Kinh doanh thương mại tại Tòa án những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện BLTTDS, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 03(263)/2010. - Nguyễn Thị Phượng, Giám đốc thẩm - "Xét" chứ không "xử", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, ngày 21/07/2009 (điện tử). - Phan Vũ Ngọc Quang, “Vai trò của VKSND trong TTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số tháng 4/2005. - Vương Hồng Quảng, “Từ thực tiễn giải quyết việc yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, xét thấy cần phải quy định bổ xung căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi », Tạp chí Tòa án, số 12 năm 2006. - Đinh Văn Quế, “Vấn đề giám đốc thẩm về dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí tòa án số 9 tháng 5 năm 2005. - Lê Kim Quế, “Một số vấn đề giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14 năm 2006. - Phạm Thái Quý, “Bàn về chế định chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số 12/2008. - Nguyễn Văn Tiến, “Đường lối xử lý và hậu quả những trường hợp không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2008. - Nguyễn Văn Tiến, “Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với vụ việc hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2008. - Đào Xuân Tiến, “Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/2009. - Đào Xuân Tiến, “Đảm bảo sự vô tư, khách quan của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/ 2008. - Quách Hữu Thái, “Thực tiễn TTDS rối trong xác định tranh chấp kinh doanh”, Báo pháp luật TPHCM, ngày 2.4.2010. - Đinh Văn Thanh, “Vai trò của Luật sư trong điều kiện mở rộng tranh tụng, Thông tin khoa học pháp lý số 2/2004. - Dương Quốc Thành, “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”, Tạp chí tạp chí Tòa án số 1/2004. - Phương Thảo, “Về án phí trong trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện tại cấp phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 269 BLTTDS”, Tạp chí Tòa án số 3/2006. - Trần Phương Thảo, “Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp luật TTDSVN”, Tạp chí Toà án nhân dân số 01/2009. - Hoàng Ngọc Thỉnh, “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm 2004. Đặc san góp ý Dự thảo BLTTDS. - Đồng Thị Kim Thoa, “Một số vấn đề về xác định thẩm quyền của Tòa án trong tư pháp quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2006. - Kiều Trang, “Những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 22 tháng 11/2009. - Võ Huy Triết, “Nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự”, Tạp chí Kiểm sát số 5, tháng 3/2009. - Hoàng Tuấn Trọng, “Bàn về vượt quá phạm vi khởi kiện”, Tạp chí Toà án nhân dân tháng 12/2008. - Trần Văn Tuân, “Phân biệt thẩm quyền của TAND và UBND trong việc giải quyết việc xin xác nhận cha mẹ”, Tạp chí Tòa án số 2/2004. - Điêu Ngọc Tuấn, “Giải quyết tranh chấp về quyền tác giả tại TAND theo thủ tục TTDS”, Tạp chí Tòa án số 14/2005. - Trần Anh Tuấn, “Nhập, tách vụ án dân sự – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án số 3/2005. - Trần Anh Tuấn, “Vấn đề nhập, tách các yêu cầu trong vụ việc dân sự và cơ chế chuyển hóa giữa các việc dân sự, vụ án dân sự”, Tạp chí Tòa án số 18/2006. - Trần Anh Tuấn, “Quyền khởi kiện và xác định tư cách tham gia tố tụng”, Tạp chí Toà án nhân dân tháng 12/2008. - Phạm Minh Tuyên, “Một số khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về giám định, chi phí giám định, định giá, án phí cùng một số kiến nghị”, Tạp chí Tòa án số 8/2008. - Nguyễn Quang Tuyến, “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 14/2004. - Trần Văn Trung, “Một số vấn đề đặt ra khi thực hiện thẩm quyền mới của Tòa án cấp huyện theo quy định của BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số 14/2006. - Trần Văn Trung, “Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát số 12/2004, tr.16. - Vũ Thị Hồng Vân, “Về mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2006. - Hồng Việt, “Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn” Website Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14.3.2008. - Hoàng Thu Yến, “Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong TTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2006. Tài liệu khác - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Những luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam”, Bộ tư pháp, Hà Nội năm 2002. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”, Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội năm 1996. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những quan điểm cơ bản của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”, Viện nhà nước và pháp luật, Hà Nội năm 2002. - Những vấn đề cơ bản của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004, Nxb Tư pháp, năm 2004. - Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Trường Đại học Luật Hà nội, Nxb CAND, năm 1999. - Kỷ yếu hội thảo pháp luật tố tụng dân sự Việt - Nhật, năm 1999. - Kỷ yếu hội thảo pháp luật tố tụng dân sự, Nhà pháp luật Việt- Pháp, Hà Nội năm 1999, 2000 và 2001. - Kỷ yếu dự án VIE/95/ 017 về Luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Hà nội năm 2001. - Đặc san chuyên đề về Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội tháng 8/2004. - Đặc san chuyên đề về Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật học, Hà Nội tháng 6/2004. - Dự án VIE/95/017, Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Về pháp luật tố tụng dân sự, NXB Văn hóa dân tộc-Tòa án nhân dân tối cao, 2000 - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001 Các website: - Http://www.Luatvietnam.com.vn - Http://www.Vietlaw.gov.vn - http://www.vietnamlawjournal.com.vn - http://www.nclp.gov.vn - http://westlaw.com - http://chinhphu.vn - http://toaan.gov.vn - http://tand.hochiminhcity.gov.vn 11.Nội dung chi tiết học phần: Chương I : KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ ………..(3 tiết) I.Một số khái niệm trong luật tố tụng dân sự 1. Khái niệm vụ việc dân sự Bao gồm các vụ án dân sự và việc dân sự a. Vụ án dân sự: Các tranh chấp dân dự, hôn nhân và gia đình, tranh chấp kinh doanh, thương mại, tranh chấp lao động….Tranh chấp là tình trạng xung đột về lợi ích pháp lý giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nói trên và bản thân các bên không thể giải quyết được những xung đột lợi ích đó, buộc phải cần đến sự can thiệp của Tòa án. Vụ án dân sự là đối tượng của thủ tục giải quyết án dân sự b. Việc dân sự : là những quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh , thương mại, lao động không có xung đột về lợi ích pháp lý nhưng cá nhân, tổ chức có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của mình hoặc của cá nhân, tổ chức khác, yêu cầu Tòa án công nhận quyền chủ thể trong những quan hệ pháp luật đó Việc dân sự là đối tượng của thủ tục giải quyết việc dân sự. 2.Trình tự TTDS tự sơ thẩm a.Trình tự giải quyết vụ án dân sự -Trình tự sơ thẩm -Trình tự phúc thẩm -Trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm -Trình tự thi hành án b.Trình tự giải quyết việc dân sự -Trình tự sơ thẩm -Trình tự phúc thẩm 3.Khái niệm luật TTDS a.Đối tượng điều chỉnh Theo điều 1 BLTTDS thì tòan bộ các nguyên tắc cơ bản trong TTDS, trình tự, thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự, trình tự thủ tục yêu cầu giải quyết việc dân sự, trình tự thủ tục giải quyết của Tòa án vụ việc dân sự, thi hành án dân sự, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan…được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật. Tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh trình tự, thủ tục xem xét và giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân và trình tự thủ tục thi hành các bản án, quyềt định dân sự hình thành một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt nam – đó là Luật TTDS. Việc thừa nhận sự tồn tại của một ngành luật trong hệ thống pháp luật không chỉ đơn thuần là vấn đề lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Tính độc lập của Luật TTDS thể hiện ở đối tượng điều chình và phương pháp điều chỉnh của nó. + Đối tượng điều chỉnh của Luật TTDS là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự b.Phương pháp điều chỉnh Phương pháp điều chỉnh của Luật TTDS gồm: Định đoạt và mệnh lệnh II. Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS 1. Khái niệm về nguyên tắc a. Khái niệm và ý nghĩa a. Khái niệm : Nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS là những tư tưởng chính trị - pháp lý chủ đạo định hướng cho toaøn bộ họat động của TA và những người tham gia tố tụng khác, được ghi nhận trong các quy phạm của Luật TTDS và phản ánh đặc thù của TTDS. + Tính khách quan + Tính chủ quan + Tính quy phạm b. Ý nghĩa : Nguyên tắc của luật – là một trong những đặc thù của pháp luật phản ánh bản chầt của pháp luật của mỗi nhà nước, mỗi hình thái kinh tế xã hội cụ thể. Nguyên tắc cơ bản : là nền tảng có tính định hướng cho việc xây dựng pháp luật TTDS, giải thích và áp dụng pháp luật TTDS. 2. Nội dung các nguyên tắc a. - Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong TTDS. ( Đ. 3) + Pháp chế và ý nghĩa của nó trong Nhà nước . + Định nghĩa về nguyên tắc Pháp chế trong TTDS + Nội dung của Nguyên tắc: yêu cầu tuân thủ triệt đeå các quy định của BLTTDS đối với các cơ quan tiến hành TT, người tiến hành TT, những người tham gia TT khác trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Sự vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLTTDS trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có thể là căn cứ để hủy bản án theo trình tự phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm + ý nghĩa của nguyên tắc: bảo đảm tính khách quan cho Bản án , quyềt định của TA, thực hiện nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, loại trừ moïi sự tùy tiện, lạm dụng . + Cơ chế bảo đảm nguyên tắc: họat động kieåm sát , họat động giám sát của TA cấp trên, họat động giám sát của nhân dân , quyền khiều nại, tố cáo… b. Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong TTDS ( Đ.,8) + Bình đẳng của công dân trước pháp luật – quyền cơ bản của công dân. Sự bình đẳng của các thanh phần kinh tế trước pháp luật - ghi nhận của Hiến pháp. Nguyên tắc này của BLTTDS là nguyên tắc Hiến pháp – cụ thể hóa trong lĩnh vực họat động TTDS. + nội dung của nguyên tắc: Công dân, tổ chức , cơ quan khi tham gia vào trong họat động TTDS đều có sự bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự không phân biệt dân tộc nam nữ, tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, hình thức sở hữu, hình thức tổ chức và những vấn đề khác. Thí dụ, Nếu họ tham gia với tư cách là nguyên đơn , họ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn. + Ý nghĩa của nguyên tắc: phản ánh tính chất dân chủ của TTDS trong nhà nước ta, thừa nhận cơ hội bình đẳng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. c. - Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự ( Đ. 11) + Nguyên tắc Hiền pháp ; thể hiện quyền tham gia quản lý và giám sát họat động của cơ quan Nhà nước của công dân. Hình thức tham gia trực tiếp. + Nội dung : Khi xét xử án dân sự sự tham gia của Hội thẩm nhân dân- đại diện cho dân cư ở đơn vị hành chính –lãnh thổ nhất định là bắt buộc . Thành phàn Hội đồng xét xử gồm thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trường hợp đặc biệt Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như thẩm phán .Phạm vi của nguyên tắc này có giới hạn: vụ án dân sự và một số giai đoạn + Ý nghĩa: Mở rộng sự tham gia của nhân dân, mở rộng khả năng giám sát của nhân dân trong họat động tư pháp, giúp cho họat động xét xử của TA gần với cuộc sống hơn. d. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ( Đ. 12) + Nguyên tắc Hiến pháp thể hiện tính độc lập tương đối của quyền lực Tư pháp trong Nhà nước , phản ánh đặc thù của họat động xét xử. + Nội dung : Tính độc lập của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử vụ án dân sự. Tính độc lập này thể hiện trong quan hệ giữa các thành viên của Hội đồng xét xử với nhau, với TA cấp trên, với Chánh án, Với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, với các cơ quan Nhà nước khác. Căn cứ cho hoạt động xét xử của Thầm phán và hội thẩm nhân dân là pháp luật . Hai yếu tố này có quan hệ qua lại với nhau. TA chỉ độc lập khi chỉ tuân theo pháp luật và khi thực hiện chức năng xét xử của mình- liên quan đến việc xác định các sự kiện tình tiết của vụ án, đến việc áp dụng pháp luật thì TA cần phải độc lập. + Ý nghĩa : Bảo đảm tính khách quan , công minh của bản án, sáng tỏ sự thật khách quan. e.Nguyên tắc xét xử tập thể ( Đ. 14) + Các vụ án dân sự- những tranh chấp pháp lý –xung đột lợi ích của các bên tham gia. Giải quyết vụ án – làm sáng tỏ những tình tiết, sự kiện và đánh giá pháp lý, vận dụng pháp luật …đòi hỏi sự thận trọng trong việc xem xét đánh giá các tình tiềt ,các khía cạnh pháp lý. Do vậy, việc xét xử vụ án dân sự thực hiện bởi một tập thể với những nhình thức khác nhau như Hội đồng xét xử gồm hai Hội thẩm nhân dân , một thẩm phán ở cấp sơ thẩm hoặc ba thẩm phán ở cấp phúc thẩm, TA chuyên trách của TANDTC hoặc Ủy ban thẩm phán hay Hội đồng thẩm phán. + Nội dung : Tính tập thể với các hình thức khác nhau khi xét xử các vụ án dân sự là quy định bắt buộc, sự vi phạm quy định về tính tập thề, về thành phần của những hình thức tập thể đó được coi là vi phạm tố tụng nghiệm trọng. Khi xét xử tập thể - gồm nhiều thanh viên khác nhau thì nguyên tắc quyết định theo đa số là nguyên tắc được coi là hợp lý nhất- thể hiện ý chí đại diện cho tập thể. + ý nghĩa của nguyên tắc: Tăng thêm khả năng loại trừ những sai lầm tư pháp, bảo đảm tính công minh, có căn cứ của bản án, quyết định của TA. g Nguyên tắc xét xử công khai (Đ. 15) + Nguyên tắc Hiến pháp thể hiện tính dân chủ của TT, mở rộng sự tham gia , giám sát của nhân dân đối với họat động xét xử của TA + Nội dung: Việc xét xử các vụ án dân sự ở các TA các cấp trong phạm vi lãnh thổ VN đều mở rộng cửa cho sự tham gia của dân chúng quan tâm đến phiên tòa. Mọi công dân đủ 16 tuổi đều có quyền tham dự các phiên tòa, không ai có quyền cản trở. Trường hợp ngoại lệ: K.2 Đ. 15 + Ý nghĩa: Như là cơ sở pháp lý cho họat động giám sát của nhân dân với việc xét xử của TA, tăng cường tính trách nhiệm của TA trong việc thựchiện chức năng xét xử của mình. Ngòai ra , còn có ý nghĩa về tuyên truyền giáo dục pháp luật , răn đe, phòng ngữa vi phạm pháp luật trong các quan hệ dân sự, Hôn nhân và gia đinh, trong họat động kinh doanh, thương mại, lao động… h. Nguyên tắc thực hiện cheá độ hai cấp xét xử ( Đ. 17) + Quyết định thực chất vụ việc dân sự được giải quyết ở cấp sơ thẩm Việc xét xử của TA là quá trình vận dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể thực hiện bởi những con người cụ thể. Do vậy sai lầm tư pháp là điều hòan tòan có thể xảy ra. Để khắc phục kịp thời những sai lầm , thiếu sót tư pháp của cấp sơ thẩm cần có cơ chế xem xét lại bàn án, quyềt định của cấp sơ thẩm khi chúng chưa có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm là cấp có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyềt định sơ thẩm . Điểm dừng của việc xét xử. + Nội dung : - Bản án, quyềt định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay. Luật thừa nhận quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án., quyết định sơ thẩm khi thấy có dấu hiệu không có căn cứ hoặc không hợp pháp. Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là cơ sở pháp lý cho việc xét xử phúc thẩm. Luật thừa nhận khả năng rộng rãi việc kháng cáo, kháng nghị. - Xét xử phúc thẩm là việc kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ của bản án, quyềt định sơ thẩm thực hiện bởi Cấp TA cao hơn , có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn hơn để có thể phát hiện , sửa chữa kịp thời những sai lầm tư pháp của cấp sơ thẩm. Quyềt định của cấp phúc thẩm là quyết định cuối cùng , có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tuyên. -Trình tự xét xử sơ thẩm phúc thẩm được xem như là trình tự thông thường trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. + Ý nghĩa: Là bảo đảm pháp lý cho tính công minh của bản án ,quyết định của TA . . i.Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự ( đ. 5) + Đối tương xét xử của TA là những vụ việc dân sự- những quan hệ của luật tư trong đó các chủ thể có quyền tự do ý chí quyềt định về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung khi tham gia vào TTDS còn là chủ thể của quan hệ tố tụng- có các quyền và nghĩa vụ tố tụng , những phương tiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên tắc về quyền quyềt định và tự định đọat của Luật TTDS là sự phản ánh nối dài của quyền tự định đọat trong quan hệ của luật nội dung. Trong TTDS các đương sự không chỉ có quyền tự định đọat các quyền nội dung mà còn có thể tự định đọat các quyền tố tụng theo sự lựa chọn của mình mà họ cho rằng đó là cách tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền tự định đọat của đương sự ảnh hưởng có tính quyết định đến tiến trình của TTDS . Quyền được nhìn nhận như một nguyên tắc cơ bản và đặc thù của TTDS vì nó là nền tảng xác định quan hệ giữa các bên đương sự với TA trong tiến trình TTDS. Nguyên tắc tự định đọat của đương sự là sự thừa nhận quyền tự định đọat của đương sự là động lực của TTDS, là nhân tố quyết định chủ yếu sự khởi đầu, vận động và chấm dứt của TTDS. + Nội dung : -Họat động TTDS được bắt đầu, vận động từ giai đọan này sang giai đọan khác hoặc chấm dứt phụ thuộc chủ yếu vào sự tự định đọat của các đương sự. Cụ thể: -vụ việc dân sự được TA thụ lý trên cơ sở chủ yều là đơn khởi kiện vả yêu cầu giải quyềt của đương sự. Không có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu của đương sự thì không có TTDS. Trường hợp TTDS được khởi động trên cơ sở đơn khởi kiện của tổ chức, cơ quan vì lợi ích của người khác hay lợi ích của xã hội., lợi ích của Nhà nước là những trường hợp đặc biệt. - Các bên đương sư đưa ra những yêu cầu gì thì TA chỉ xem xét và giải quyềt trong phạm vi những yêu cầu đó. TA không có quyền xem xét và giải quyết những gì mà các bên đương sự không yêu cầu. Sự vượt quá giới hạn yêu cầu của đương sự được thực tiễn xét xử nhìn nhận như sự vi phạm tố tụng nghiêm trọng. - Trong quá trình giải quyềt vụ việc dân sự, các bên đương sự có quyền thay đổi yêu cầu của mình. TA có nghĩa vụ tôn trọng lựa chọn đó của các bên. - Trong quá trình giải quyềt vụ việc dân sự các đương sự có quyền rút lại yêu cầu của mình hoặc hòa giải với nhau để chấm dứt việc giải quyềt vụ việc dân sự. Tòa án phải tôn trọng sự lựa chọn của đương sự nếu sự lựa chọn đó là tự nguyên và không trái pháp luật Nguyên tắc này có một số ngoại lệ . + Ý nghĩa của nguyên tắc: đề cao tính tích cực tố tụng của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và hạn chế sự can thiệp không cần thiết của TA, hạn chế thời gian tố tụng và chi phí tố tụng. -k.Nguyên tắc hòa giải trong TTDS (đ. 10) + Hòa giải là một trong những biểu hiện của quyền tự định đọat của đương sự. Hòa giải là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên về giải quyết vụ việc của các bên với sự giúp đỡ của TA. Hậu quả của hòa giải là chấm dứt giaỉ quyềt vụ án dân sự, chấm dứt hoạt động tố tụng. Đây là cách thức giải quyềt vụ án dân sự mà không cần đến bản án của TA có lợi cho các bên và có lợi cho cả TA. Hóa giải lúc này được tiến hành dưới sự giám sát và trợ giúp của thẩm phán. Thẩm phán là người hòa giải. + Nội dung: Hòa giải được nhìn nhận như một thủ tục bắt buộc trong tiến trình giải quyềt vụ án dân sự trừ những trường hợp không được hòa giải hoặc không thể hòa giải theo quy định của pháp luật. TA có nghĩa vụ tiến hành thủ tục hòa giải. Vi phạm quy định tiền hành thủ tục hòa giải được xem xét như vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng. . TA , cụ thể là thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc , là người tiến hành hòa giải các bên. TA khác với người hòa giải ngoài tố tụng khác ở chỗ: TA không chỉ thực hiện chức năng của người hòa giải mà còn thực hiện chức năng của người đại diện cho quyền lực NHà nước, giám sát sự tôn trọng pháp luật trong quá trình hòa giải của các bên và ghi nhận kềt quả hòa giải. + Ý nghĩa : Thể hiện sự tôn trọng của Pháp luật đối với quyền tự định đõat của đương sự và sự khuyên khích các bên giải quyềt vụ việc của mình mà không cần đến bản án của TA thông qua sự trợ giúp của thẩm phán. Chương II:CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ …(6 tiết) I.Chủ thể tiến hành tố tụng 1.Cơ quan tiến hành tố tụng a. Tòa án nhân dân -Theo 127 Hiến pháp 1992: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam -Theo Luật Tổ chức TAND :Điều 1 quy định"… Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do , danh dự và và nhân phẩm của công dân…" nhiệm giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh-thương mại và giải quyết các yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh- thương mại -Tổ chức Tòa án nhân dân được xây dựng -Theo Bộ luật TTDS: Tòa án có trách theo đơn vị hành chính. Ở trung ương có Tòa án nhân dân tối cao, cấp tỉnh là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là Tòa án nhân dân cấp huyện. a.Nhiệm vụ , quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án dân sự: -Thủ tục sơ thẩm: +Thụ lý vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh thương mại +Giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự +Hòa giải vụ án dân sự +Ap dụng các biện pháp để giải quyết vụ án: Biện pháp khẩn cấp tạm thời, thu thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không thể thu thập được, cử người phiên dịch ,tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án và các biện pháp khác +Xét xử sơ thẩm +Ra bản án, quyết định đúng đắn, khách quan, chính xác và đúng pháp luật -Thủ tục phúc thẩm: +Xem xét và chấp nhận kháng cáo +Chuẩn bị xét xử phúc thẩm +Ap dụng các biện pháp do luật định để tiến hành tố tụng +Xét xử phúc thẩm -Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: +Xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm b.Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết các việc dân sự : +Nhận đơn yêu cầu và tài liệu chứng cứ +Ra quyết định mở phiên họp +Tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự +Ra quyết định giải quyết việc dân sự +Phúc thẩm quyết định bị kháng cáo, kháng nghị b. Viện kiểm sát nhân dân -Theo điều 137 Hiến pháp: Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất -Theo Điều 20 Luật tổ chức Viện kiểm sát:"Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời." Khi thực hiện chức năng kiểm sát ,VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: +Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án +Tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến +Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân +Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng +Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm -Theo Bộ luật TTDS: +Điều 21 Bộ luật TTDS quy định :"Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu , kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật " +Tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án , kháng nghị bản án , quyết định giải quyết vụ án dân sự +Tham dự phiên họp giải quyết việc dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết việc dân sự ; kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự +Kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời +Tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt nam bản án , quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài và kháng nghị các quyết định giải quyết công nhận hay không công nhận +Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm , tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm +Có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và cấp dưới bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật Ngoài việc kiểm sát hoạt động tố tụng tại Tòa án, Viện kiểm sát còn kiểm sát hoạt động thi hành án : +Kiểm sát Cơ quan thi hành án , Chấp hành viên , cơ quan ,tổ chức và cá nhân có liên quan trong việc thi hành án +Yêu cầu Cơ quan thi hành án , Chấp hành viên ra quyết định thi hành đúng quy định của pháp luật +Yêu cầu Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên cung cấp hồ sơ , tài liệu liên quan đến việc thi hành +Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án +Kháng nghị các quyết định thi hành án. 2.Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự Là những chủ thể theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, có quyền áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc dân sự. Theo quy định tại khoản 2 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, a. Chánh án Tòa án -Chánh án Tòa án là người đứng đầu Tòa án -Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án(điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự) c.. Thẩm phán Là người theo quy định của pháp luật có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng để giải quyết các vụ việc dân sự -Tiêu chuẩn Thẩm phán (Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân) -Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán (điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự) d.Hội thẩm nhân dân -Là người có quyền tham gia vào việc xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự. -Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân (Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân) -Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân (điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự) đ..Thư ký Tòa án -Là người giúp việc cho Thẩm phán trong hoạt động tiến hành tố tụng và làm thư ký phiên tòa -Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án (điều 43 Bộ luật tố tụng dân sự) e.Viện trưởng Viện kiểm sát g.Kiểm sát viên II.Chủ thể tham gia tố tụng 1.Năng lực chủ thể Năng lực chủ thể là khả năng mà chủ thể đó theo quy định của pháp luật có quyền tham gia tố tụng. Năng lực chủ thể tố tụng dân sự bao gồm: Năng lực pháp luật tố tụng dân sư và năng lực hành vi tố tụng dân sự -Năng lực pháp luật tố tụng dân sự Là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. *Năng lực pháp luật của cá nhân *Năng lực pháp luật của cơ quan, tổ chức -Năng lực hành vi tố tụng dân sự Là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự. *Năng lực hành vi của các nhân (điều 57 BLTTDS) Các mức độ năng lực hành vi của cá nhân: @/Cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ Là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự @/Cá nhân có năng lực hành vi chưa đầy đủ Là cá nhân đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động, tham gia hợp đồng dân sự hoặc bồi thường thiệt hại bằng tài sản riêng. @/Cá nhân không có năng lực hành vi Là người dưới 18 tuổi, người mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự *Năng lực hành vi của cơ quan, tổ chức Cơ quan, tổ chức được thành lập hợp pháp có năng lực hành vi khi được thành lập theo trình tự do luật định Đương sự trong tố tụng dân sự là khái niệm dùng để chỉ cho nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự chỉ có trong các vụ án dân sự Đương sự là nhóm chủ thể quan trọng trong tố tụng dân sự. Họ có quyền làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quá trình tố tụng dân sự. Đương sự khi tham gia tố tụng là nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình. Họ có các quyền năng mà các chủ thể khác không có. 2.Đương sự a.Nguyên đơn -Khái niệm: Là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm -Đặc điểm: +Là người đã khởi kiện hoặc được người khác khởi kiện +Giả thiết rằng quyền lợi họ bị xâm phạm -Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn(điều 58, 59 Bộ luật tố tụng dân sự) b.Bị đơn - Khái niệm: Là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. -Đặc điểm: +Là người tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn, của người khởi kiện khác +Giả thiết cho rằng họ xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn -Quyền, nghĩa vụ của bị đơn (điều 60 Bộ luật tố tụng dân sự) c.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan -.Khái niệm Là người tuy không khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chia thành hai loại: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập -.Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Điều 61 Bộ luật tố tụng dân sự -Đồng tham gia tố tụng và kế thừa tố tụng -Khái niệm: Là trường hợp có nhiều người tham gia tố tụng trong một vụ án dân sự. Đồng tham gia tố tụng bao gồm đồng nguyên đơn, đồng bị đơn . Đồng nguyên đơn là trường hợp nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức cùng khởi kiện một cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. Đồng bị đơn là trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. III.Những người tham gia tố tụng khác Đây là nhóm chủ thể bổ trợ, giúp cho Tòa án và đương sự làm sáng tỏ nội dung vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Họ tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án, đương sự. Họ không có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án. a.Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự -Khái niệm +Luật sư (Luật luật sư) +Cá nhân (theo điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự) -Quyền , nghĩa vụ của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự ( điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự) b.Người làm chứng -Khái niệm Là người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng -Quyền, nghĩa vụ (điều 66 Bộ luật tố tụng dân sự) c.Người giám định -Khái niệm Là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn hoặc được Tòa án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự -Quyền, nghĩa vụ (điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự) d.Người phiên dịch -Khái niệm Là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt -Quyền, nghĩa vụ (điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự) đ.Người đại diện -Khái niệm Đại diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Đại diện có hai loại: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền -Đại diện theo pháp luật Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định -Những trường hợp chỉ định người đại diện (điều 76 Bộ luật tố tụng dân sự) - Đại diện theo ủy quyền Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện -Chế độ pháp lý về đại diện -Quyền, nghĩa vụ của người đại diện (điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự) -Những trường hợp không được đại diện (điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự) -Chấm dứt đại diện (điều 77, 78 Bộ luật tố tụng dân sự) ChươngIII: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN……6 tiết I.Thẩm quyền theo vụ việc a.Khái niệm: 1Thẩm quyền giải quyết tranh chấp -Những vụ việc do luật Dân sự quy định (điều 25 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Hôn nhân và gia đình quy định (điều 27 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Thương mại quy định (điều 29 BLTTDS) -Những vụ viêc do luật Lao động quy định (điều 31 BLTTDS) Thẩm quyền giải quyết yêu cầu Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án có quyền giải quyết các vụ việc sau: -Những vụ việc do luật Dân sự quy định (điều 26 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Hôn nhân và gia đình quy định (điều 28 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Thương mại quy định (điều 30 BLTTDS) -Những vụ viêc do luật Lao động quy định (điều 32 BLTTDS) 2.Thẩm quyền theo cấp tòa án a. -Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện Sơ thẩm những vụ việc thuộc thẩm quyền chung trừ các loại việc của Tòa án nhân dân cấp tỉnh( điều 33 BLTTDS) b. -Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh -Tòa án cấp tỉnh có quyền sơ thẩm những vụ việc sau: +Các vụ việc dân sự mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài +Các tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại các điểm k,l,m,n,o khoản 1 điều 29 BLTTDS +Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 2 điều 31 +Các yêu cầu dân sự quy định tại K5 điều 26 BLTTDS +Các yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại K6 điều 28 BLTTDS +Các yêu cầu về lao động quy định tại điều 32 BLTTDS +Các yêu cầu về KD-TM quy định tại điều 30 BLTTDS Ngoài ra, thẩm quyền của Tòa án các cấp còn được quy định theo Nghị quyết 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 và Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại điều 33 của Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, NQ 1036 của UBTVQH -Phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện -Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật c.Thẩm quyền xét xử xủa Tòa án tối cao -Phúc thẩm các bản án, quyết định -Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật III.Thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn 1..Thẩm quyền theo lãnh thổ -Nơi bị đơn cư trú , làm việc .Đối với pháp nhân nơi bị đơn có trụ sở -Nơi nguyên đơn cư trú, làm việc nếu có thỏa thuận bằng văn bản -Nơi có bất động sản nếu tranh chấp về bất động sản -Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự (K2 điều 35 BLTTDS) 2.Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu a. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Thẩm quyền theo sự lựa chọn của người yêu cầu ( điều 36 BLTTDS) IV.Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền a.Khaí niệm tranh chấp thẩm quyền Là sự xung đột về việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các Tòa án trong hệ thống Tòa án và giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan nhà nước khác về việc thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự -Là sự xung đột về việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự giữa các Tòa án cùng cấp,giữa các tòa khác nhau và giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới -Là sự xung đột về việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự giữa Tòa án với các cơ quan nhà nước khác b.Giải quyết tranh chấp thẩm quyền Là biện pháp xử lý các xung đột về việc xác định nhiệm vu , quyền hạncủa Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự -Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh -Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các Tòa án cấp huyện khác tỉnh hoặc giữa các Tòa án cấp tỉnh với nhau. (K2, K3 điều 37 BLTTDS) Chương IV: ÁN PHÍ, LỆ PHÍ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ………..(1,5 tiết) I.An phí 1.Khái niệm, ý nghĩa a.Khái niệm Là số tiền mà đương sự phải nộp vào Ngân sách nhà nước khi vụ án đã giải quyết xong và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật b.Ý nghĩa -Là phương thức đền bù cho chi phí mà Nhà nước bỏ ra để giải quyết vụ án dân sự -Ngăn ngừa những việc kiện không có căn cứ 2.Các loại án phí a.-An phí sơ thẩm +Mức án phí +Chủ thể phải chịu án phí b.An phí phúc thẩm +Mức án phí +Chủ thể phải chịu án phí 3.. Tạm ứng án phí a.Khái niệm và ý nghĩa .Khái niệm Là số tiền mà đương sự tạm nộp khi khởi kiện, đưa ra yêu cầu hoặc kháng cáo .Ý nghĩa -Là điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án -Tăng cường trách nhiệm của đương sự trong việc khởi kiện, đưa ra yêu cầu hoặc kháng cáo b.tạm ứng án phí sơ thẩm Mức tạm ứng án phí -Tạm ứng án phí sơ thẩm (dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại) -Tạm ứng án phí phúc thẩm (dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại) Chủ thể phải nộp -Người khởi kiện -Yêu cầu phản tố, đương sự đưa ra yêu cầu với người khởi kiện -Người kháng cáo .Xử lý tiền tạm ứng án phí b.Tạm ứng án phí phúc thẩm 4.Những trường hợp được miễn, không phải nộp án phí II.Lệ phí, chi phí tố tụng 1.Lệ phí a.Khái niệm Là số tiền mà người yêu cầu phải nộp vào Ngân sách nhà nước khi yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự và quyết định đã có hiệu lực pháp luật b.Mức lệ phí c.Chủ thể phải chịu lệ phí 2.Chi phí tố tụng a.Khái niệm Là số tiền mà đương sự phải nộp khi yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định, định giá tài sản để giải quyết vụ án dân sự b.Các loại chi phí tố tụng và người phải nộp Từ điều 135 đến điều 145 Bộ luật Tố tụng dân sự Chương V: CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ…… 1,5 tiết . I.Chứng cứ 1. Khái niệm Chứng cứ là những thông tin về các tình tiềt, sự việc liên quan đến vụ vụ việc dân sự được thu thập, kiểm tra và đánh giá theo đúng trình tự do luật định mà TA dùng làm căn cứ cho việc giải quyềt đúng đắn vụ việc dân sự. 2. Nguồn chứng cứ Khái niệm về nguồn chứng cứ Trong các lĩnh vực khoa học khác, các nhà nghiên cứu tự nhiên, lịch sử .. có thể sử dụng những thông tin tồn tại trong bất kỳ hình thức nào để nhận thức về đối tượng nghiên cứu. Thí dụ, các nhà sử học có thể chứng minh về sự tồn tại của Nhà nước Văn lang thông qua những thông tin- kết quả nghiên cứu khảo cổ học, thông qua những thông tin trong các truyền thuyềt dân gian và những tài liệu sử học khác. Họat động chứng minh tư pháp- cũng là một quá trình họat động nhận thức nhưng có đặc thù. Quá trình chứng minh chỉ có thể sử dụng những thông tin dưới hình thức tố tụng và từ những nguồn do luật định. Những thông tin thực tế thu nhận được từ những nguồn không do luật quy định không được thừa nhận là chứng cứ. Một số tài liệu sử dụng khái niệm “ phương tiện chứng minh “ như là khái niệm đồng nghĩa. Nguồn chứng cứ là hình thức tồn tại của chứng cứ , hình thức chứa đựng chứng cứ - nội dung bên trong. Chứng cứ chỉ có thể hình thành và thu thập từ những nguồn được quy định trong điều 82 BLTTDS 3.Nguyên tắc xác định chứng cứ II.Chứng minh trong tố tụng dân sự 1.Chủ thể chứng minh a.Người đưa ra yêu cầu b.Người phản đối yêu cầu 2.Những vấn đề cần phải chứng minh a.Yêu cầu của đương sự b.Quy định của pháp luật nội dung CHƯƠNG VI: THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 9 TIẾT I.KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ 1. Khởi kiện vụ án dân sự a.Quyền khởi kiện vụ án dân sự Là quyền tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc của nhà nước trong trường hợp bị vi phạm hay tranh chấp b.Chủ thể khởi kiện -Chủ thể khởi kiện và mục đích c.Thủ tục khởi kiện Hình thứckhởi kiện Nộp tạm ứng án phí 2.Thụ lý vụ án dân sự a.Khái niệm thụ lý vụ án dân sự Là hành vi tố tụng của Tòa án có thẩm quyền chấp nhận việc khởi kiện của người khởi kiện Ý nghĩa của thụ lý: -Là cơ sở làm phát sinh vụ án dân sự -Là thời điểm xác định thời hạn tố tụng 2.Thủ tục thụ lý a.Nhận và xem xét đơn b.Trả lại đơn c.Thụ lý II. CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM 1. Thời hạn chuẩn bị xét xử 2. Các thủ tục tố tụng a.Hòa giải trong tố tụng dân sự -Khái niệm Để đảm bảo nguyên tắc tự định đọat của các đương sự thì hòa giải là một thủ tục bắt buộc khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự. Điều 10 Bộ luật TTDS qui định Tòa án có trách nhiệm, tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự. Hòa giải mang ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng dân sự vì việc hòa giải không chỉ giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn củng cố sự đoàn kết trong nhân dân. Việc hòa giải còn làm đơn giản thủ tục, tiết kiệm thời gian và công sức của các đương sự và cơ quan nhà nước. Hòa giải là việc Tòa án hướng dẫn các đương sự thương lượng, thỏa thuận những nội dung tranh chấp, mâu thuẫn. -Phạm vi hòa giải Những vụ án phải tiến hành hòa giải Những vụ án không được tiến hành hòa giải (điều 181 BLTTDS) Những vụ án không tiến hành hòa giải được (điều 182 BLTTDS) -Thủ tục hòa giải Nguyên tắc hòa giải Việc hòa giải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Ngoài ra, nội dung thỏa thuận của các đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. -Trình tự hòa giải Mục đích quan trọng nhất của phần hòa giải là đạt được sự thỏa thuận của đương sự trong giải quyết tranh chấp giữa các đương sự đó. Trong phiên hòa giải thì thành phần phiên hòa giải bao gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải, Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải ; các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự ; người phiên dịch trong trường hợp cần thiết. Trong Bộ luật TTDS qui định: Thẩm phán là người chủ trì phiên hòa giải còn thư ký là người ghi biên bản hòa giải. -Thủ tục ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự b.Tạm đình chỉ Trong quá trình giải quyết vụ án có thể xuất hiện những tình huống (căn cứ) mà Tòa án buộc phải tạm dừng việc giải quyết vụ án được gọi là tạm đình chỉ. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án là sự chấm dứt tạm thời các hành vi tố tụng khi các căn cứ khách quan xuất hiện ngăn cản sự phát triển của quá trình tố tụng và không thể xác định được các căn cứ này khi nào mất đi cũng như khi nào xuất hiện khả năng phục hồi quá trình tố tụng. Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án được quy định tại điều 189 BLTTDS. Đối với các vụ án bị tạm đình chỉ thì Tòa án không xóa tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý và thời gian ra quyết định tạm đình chỉ đó. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Cũng như bản án, quyết định tạm đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm c.Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Đình chỉ là sự chấm dứt hoạt động tố tụng tại Tòa án. Căn cứ đình chỉ được quy định tại điều 192 BLTTDS. Khi Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó nếu vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về thành phần đương sự và quan hệ pháp luật có tranh chấp trừ các trường hợp qui định tại các điểm c, e, g khoản 1 điều 192 BLTTDS. Cần chú ý với các điểm c, e khoản 1 điều 192 đương sự vẫn có thể khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Đối với điểm g khỏan 1 điều 192 cần chú ý nếu đương sự là doanh nghiệp, hợp tác xã không bị Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì có thể khởi kiện lại. Quyết định đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm d.Biện pháp khẩn cấp tạm thờI 1.Khái niệm Là biện pháp do Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo đảm thi hành án 2.Các biện pháp khẩn cấp tạm thờI (điều 102 Bộ luật TTDS) III. PHIÊN TÒA SƠ THẨM I.Người tham gia phiên tòa -Hoãn phiên tòa 2..Trình tự phiên tòa sơ thẩm Trình tự của phiên tòa sơ thẩm được bộ luật TTDS qui định bao gồm các bước : thủ tục bắt đầu phiên tòa , hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, Tòa án phải đảm bảo tính khách quan của người làm chứng (Đ.216). a.Thủ tục bắt đầu phiên tòa : Thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm được qui định tại các điều 213, 214, 215, 216 BLTTDS. Thủ tục bắt đầu phiên tòa được bắt đầu từ thủ tục khai mạc phiên tòa. Đây là thủ tục được thực hiện trước khi tòa án tiến hành xét xử vụ án. Theo qui định của BLTTDS thì chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tiếp đến Thư ký tòa án báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt hay vắng mặt của những người tham gia phiên tòa cũng như lý do vắng mặt. Chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người tham gia phiên tòa. Sau đó, chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác, giới thiệu họ tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch về việc họ có yêu cầu thay đổi ai hay không. Trong trường hợp có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét quyết định. Hội đồng xét xử có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận với việc nêu rõ lý do. b.Thủ tục hỏi tại phiên tòa : Thủ tục hỏi tại phiên tòa được qui định tại các điều từ điều217 đến điều 231 của BLTTDS. Thủ tục hỏi được bắt đầu bằng việc chủ tọa hỏi đương sự có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập của đương sự hay không. Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu sự thay đổi bổ sung yêu cầu của đương sự không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu. Những quy định này bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9, BLTTDS). Đối với trường hợp đương sự rút 1 phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với một phần hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút. Việc thay đổi địa vị tố tụng cũng được BLTTDS qui định tại điều 219. Theo đó, trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và ngược lại. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố nhưng người có quyền và nhgĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền và nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn và người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. Đối với các đương sự mà sau khi thay đổi địa vị tố tụng không còn liên quan đến quan hệ tranh chấp do tòa án tiếp tục giải quyết thì họ không cần phải tiếp tục tham gia tố tụng nữa. Bộ luật TTDS qui định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại điều 220. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án và quyết định này có hiệu lực pháp luật. Khi các đương sự không thể tự thỏa thuận với nhau được về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án từ việc nghe lời trình bày của các đương sự theo trình tự nguyên đơn, bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Về thứ tự hỏi tại phiên tòa được thực hiện theo thứ tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước, kế tiếp là Hội thẩm nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, kiểm sát viên sẽ hỏi sau đương sự trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Ngoài ra, trước đây Kiểm sát viên chỉ hỏi sau Hội đồng xét xử thì nay Kiểm sát viên phải hỏi sau các đương sự. Việc thay đổi trình tự hỏi tại phiên tòa đã thể hiện tính dân chủ trong phiên tòa dân sự, đề cao quyền tự định đoạt, quyền bảo vệ của các đương sự tại phiên tòa mà tránh sự can thiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi tiến hành việc xét hỏi tại phiên tòa, vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét. Để bảo đảm cho các chứng cứ được xem xét một cách toàn diện, đầy đủ trong vụ án nhằm tìm ra sự thật khách quan trong trường hợp cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với các đương sự đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng hoặc xét thấy cần thiết Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình tại phiên tòa trừ trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư cá nhân theo yêu cầu của đương sự. Đối với các tài liệu vụ án, Hội đồng xét xử quyết định công bố các tài liệu của vụ án trong các trường hợp : - Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã có lời khai. - Những lời khai của người tham gia tố tụng tại phiên tòa mâu thuẫn với những lời khai trước đó. -Trong những trường hợp khác mà Hội đồng xét xử thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án trong các trường hợp đặc biệt. Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có vấn đề gì nữa thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc việc hỏi và chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. c.Tranh luận tại phiên tòa Nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTDS được mở rộng hơn qua việc mở rộng quyền và khả năng tranh luận của các đương sự, của người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa. Thời gian tranh luận cũng như số lần phát biểu ý kiến về một vấn đề không bị hạn chế, chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, trong phần tranh luận Hội đồng xét xử vẫn giữ vai trò trung tâm. Nói chung các qui định trong Bộ luật TTDS về tranh luận tại phiên tòa đã phát huy tính chủ động, quyền tự định đoạt, nâng cao quyền dân chủ của công dân trong hoạt động tố tụng dân sự đồng thời vẫn đảm bảo được sự hài hòa, sự phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. d.Nghị án và tuyên án Nghị án và tuyên án là phần tiếp theo sau khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách giải quyết theo đa số đối với từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số được trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án. Việc nghị án chỉ được căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc hỏi tại phiên tòa, xem xét ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên. Khi nghị án phải được lập biên bản nghị án và được các thành viên Hội đồng xét xử sẽ ký vào trước khi tuyên án. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp đòi hỏi phải có thời gian dài trong việc nghị án thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá 5 ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa biết thời gian và địa điểm tuyên án. Nếu Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo qui định. Khi tuyên án thì tất cả mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa đọc bản án và giải thích cho đương sự quyền kháng cáo. Trong trường hợp đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sáng ngôn ngữ mà họ biết. 3.Bản án sơ thẩm 1.Khái niệm và bản chất bản án sơ thẩm a.Khái niệm : Bản án là văn bản từ cơ quan nhà nước, nhân danh nước CHXHCN VN có thẩm quyền thực hiện họat động xét xử nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự có tranh chấp. Do bản án của Tòa án là một văn bản pháp lý của hoạt động xét xử cho nên nội dung và trình tự ra bản án cũng được Bộ luật tố tụng DS qui định cụ thể và rõ ràng. b.Bản chất Bản án là văn bản quan trọng nhất của hoạt động xét xử và nó có tính quyền lực và tính cưỡng chế. Tính quyền lực và tính cưỡng chế của bản án sơ thẩm được thể hiện ở việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ án đều phải chấp hành và thực hiện theo quyết định của bản án. 2.Nội dung và cơ cấu bản án : Bản án gồm 3 phần : phần mở đầu, phần nội dung và nhận định, phần quyết định. + Phần mở đầu : Ghi rõ tên Tòa án xét xử sơ thẫm, số và ngày thụ ý vụ án, số bản án và ngày tuyên án, họ tên các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, tên địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cơ quan tổ chức khởi kiện, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đối tượng tranh chấp; số ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử, xét xử công khai hoặc xét xử kín, thời gian và địa điểm xét xử + Phần nội dung vụ án và nhận định: Ghi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, khởi kiện của cơ quan, tổ chức; yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ; nhận định của Tòa án; điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà Tòa án căn cứ để giải quyết vụ án. Trong phần nhận định, Tòa án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. + Phần quyết định: Ghi các quyết định của Tòa án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án, trướng hợp có quyết định thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó. 4.Những thủ tục tiến hành sau phiên tòa a.Sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm Theo qui định tại điều 240 Bộ luật TTDS thì sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung phải được thông báo ngay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung. Đồng thời việc sửa chữa, bỗ sung bản án cũng được thông báo cho cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Việc sửa chữa, bỗ sung bản án phải do Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên của Hội đồng xét xử vụ án đó thực hiện. Trường hợp Thẩm phán đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán thì Chánh án Tòa án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung. b. Sửa chữa, bổ sung biên bản phiên tòa c.Cấp trích lục bản án, quyết định CHƯƠNG IX: THỦ TỤC PHÚC THẨM DÂN SỰ….3 tiết I. Khái niệm và ý nghĩa của xét xử phúc thẩm dân sự 1.Khái niệm xét xử phúc thẩm Thủ tục phúc thẩm là một giai đọan tố tụng, là tổng hợp các quan hệ tố tụng phát sinh giữa Tòa án với những người tham gia tố tụng nhằm mục đích kiểm tra tính hợp pháp với tính có căn cứ của các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẫm bị kháng cáo, kháng nghị 3.Ý nghĩa của xét xử phúc thẩm -Nhằm sửa chữa những sai sót của các bản án, quyết định sơ thẩm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. -Tạo khả năng thuận lợi cho tòa án cấp trên kiểm tra chất lượng xét xử của tòa án cấp dưới. Qua đó, chỉ đạo hoạt động của tòa án cấp dưới cho phù hợp với pháp luật, đúc kết kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn sai sót trong công tác xét xử đồng thời bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xét xử II. Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm 1.Chủ thể kháng cáo, kháng nghị Điều 223 BLTT qui định chủ thể kháng cáo là đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện. Họ có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của tòa án sơ thẩm để yêu cầu tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. 2. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị Thời hạn kháng cáo đối với bản án của tòa án cấp sơ thẫm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án thì thời hạn kháng cáo là 7 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Bộ luật tố tụng dân sự cũng qui định trong trường hợp kháng cáo quá hạn thì tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do của việc kháng cáo quá hạn và nếu cần thiết thì xuất trình chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho việc kháng cáo quá hạn. Khi có đương sự kháng cáo quá hạn thì tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo quá hạn cùng với bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và các tài liệu chứng cứ cho tòa án phúc thẩm. Trong thời hạn 10 ngày, tòa án cấp phúc thẩm phải thành lập Hội đồng gồm 3 Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn và phải nêu rõ lý do. Nếu tòa án phúc thẩm chấp nhận kháng cáo quá hạn thì tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục theo qui định và gửi hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm để chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Điều 250 của Bộ luật TTDS qui định chủ thể của việc kháng nghị bản án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của tòa án cấp sơ thẩm là Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Đối với quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của tòa án cấp sơ thẩm thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 7 ngày, của viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định. 3.Hình thức kháng cáo, kháng nghị Bằng văn bản 4.Hậu quả của kháng cáo, kháng nghị Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị là những phần nào của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo kháng nghị thì phần đó chưa được đưa ra thi hành, trừ những trường hợp phải thi hành ngay như phần quyết định về cấp dưỡng, trả tiền công lao động, nhận lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏa của công dân. Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được đưa ra thi hành. III Trình tự phúc thẩm 1.Thụ lý vụ án Do bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay cho nên để đảm bảo chất lượng xét xử tại phiên tòa phúc thẩm thì việc chuẩn bị cho xét xử phúc thẩm chu đáo, đầy đủ là rất cần thiết. Theo qui định của Bộ luật TTDS về chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo, tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm. 2.Chuẩn bị xét xử phúc thẩm Sau khi thụ lý vụ án, Chánh án tòa án cấp phúc thẩm hoặc chánh tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm cũng có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bộ luật tố tụng dân sự quy định, trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, tòa án cấp phúc thẩm có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay ra quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời theo qui định tại chương VIII của Bộ luật TTDS Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong trường hợp Viện kiểm sát đã kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm hoặc đã tham gia phiên tòa sơ thẩm thì Viện kiểm sát phải cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ ccủa viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ lại cho tòa án để tiến hành đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn 2 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây : - Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. - Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. - Đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm Đối với vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì chánh án tòa án phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử nhưng không được quá một tháng. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm, trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 2 tháng. a.Tạm đình chỉ Việc quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm và hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm được thực hiện theo qui định của các điều 189, 190, 191 của Bộ luật tố tụng dân sự. b.Đình chỉ : Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm trong các trường hợp : - Qui định tại điểm a và điểm b khoản 1, điều 192 của Bộ luật TTDS - Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị. - Các trường hợp khác mà pháp luật có qui định. Trong trường hợp tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do người kháng cáo rút tòan bộ kháng cáo hoặc viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tòa án cấp phúc thẩm thẫm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm 3. Phiên tòa phúc thẩm a. Thủ tục bắt đầu phiên tòa Thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo qui định tại các điều 212, 213, 214, 215, 216 của BLTTDS b.Hỏi tại phiên tòa Một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Tiếp theo hỏi nguyên đơn có rút đơn khởi kiện hay không, hỏi người kháng cáo, Kiểm sát viên thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo kháng nghị hay không, hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không Về việc rút đơn khởi kiện, Bộ luật tố tụng qui định cho nguyên đơn có quyền rút đơn khởi kiện tại tòa án cấp phúc thẩm là thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc quyền tự định đọat của đương sự. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong trường hợp trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không. Nếu bị đơn đồng ý để nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và ra quyết định hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tại phiên tòa phúc thẩm thẫm khi các đương sự vẫn giữ kháng cáo hoặc viện kiểm sát vẫn giữ kháng nghị và các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án Trong vụ án mà tất cả các đương sự đều kháng cáo thì thứ tự trình bày như sau: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo của nguyên đơn và nguyên đơn; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo của bị đơn và bị đơn; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trong vụ án mà chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị và căn cứ kháng nghị Trường hợp có kháng cáo lẫn kháng nghị thì các đương sự trình bày trước rồi đến Kiểm sát viên trình bày sau. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và các đương sự khác. Đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo và đề nghị của mình. Thủ tục hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện như tại phiên tòa sơ thẩm, việc hỏi được qui định tại điều 263 bộ luật tố tụng dân sự. c.Tranh luận tại phiên tòa Việc tranh luận tại phiên tòa được thực hiện như tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như qui định tại điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự. Một điểm cần chú ý là chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên tòa phúc thẩm d.Nghị án và tuyên án Nghị án và tuyên án được thực hiện như tại phiên tòa sơ thẫm. 4.Quyền hạn của tòa cấp phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ có quyền xem xét lại phần có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền hạn sau : - Giữ nguyên bản án sơ thẩm - Sửa bản án sơ xử phúc thẩm - Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. - Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án Đối với việc sửa bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu tòa án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong những trường hợp : +Việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng qui định của chương VII Bộ luật tố tụng. +Việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa được thực hiện đầy đủ ở tòa cấp sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm nó đã được bổ sung đầy đủ. Đối với việc hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án trong trường hợp việc chứng minh và thu thập chứng cứ không đúng như qui định tại chương VII của bộ luật này hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà cấp phúc xử phúc thẩm không thể thực hiện việc bổ sung được hoặc thành phần của Hội đồng xét xử không đúng qui định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. Đối với việc hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điều 192 của bộ luật. 5. Thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của tòa án bị kháng cáo, kháng nghị Thủ tục phúc thẩm đối với tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị được qui định tại điều 280 của Bộ luật TTDS. BLTTDS cũng qui định khi phúc thẩm đối với quyết định của tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng phúc thẩm không phải mở phiên tòa, không phải triệu tập đương sự trừ trường hợp phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định. Hội đồng phúc thẩm có các thẩm quyền như sau: + Giữ nguyên quyết định của tòa án cấp sơ thẩm + Sửa quyết định của tòa án cấp sơ thẩm + Hủy quyết định của tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết vụ án BLTTDS qui định Kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm quyết định của tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và sự tham gia này là bắt buộc. Về trình tự tiến hành phúc thẩm quyết định của tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì một thành viên của Hội đồng phúc thẩm trình bày tóm tắt nội dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo( nếu có). Sau đó, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định và quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày ra quyết định. Chương X: THỦ TỤC XÉT LẠI CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT ……3 tiết I.Thủ tục giám đốc thẩm 1.Bản chất GDT Là việc Tòa án cấp trên xét lại bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án b.Ý nghĩa -Sửa chữa sai sót của Tòa án -Bảo vệ quyền lợi của đương sự -Thông qua giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên kịp thời hướng dẫn áp dụng pháp luật cho chính xác 2.Kháng nghị GDT a.Chủ thể kháng nghị b.Căn cứ kháng nghị c.Hình thức kháng nghị d.Thời hạn kháng nghị 3.Thẩm quyền giám đốc thẩm 4.Phiên toà giám đốc thẩm 5.Quyền hạn của hội đồng giám đốc thẩm -Giữ nguyên bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật, bản án, quyết định bị hủy, bị sửa -Hủy bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm, phúc thẩm lại -Hủy và đình chỉ II.Thủ tục tái thẩm 1. Bản chất GDT Là việc Tòa án cấp trên xét lại bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó 2.Kháng nghị tái thẩm a.Chủ thể kháng nghị b.Căn cứ kháng nghị c.Hình thức kháng nghị d.Thời hạn kháng nghị 3.Thẩm quyền tái thẩm 4.Phiên toà tái thẩm 5.Quyền hạn của hội đồng tái thẩm -Giữ nguyên bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật -Hủy bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại -Hủy và đình chỉ III. Thủ tục đặc biệt 1. Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó. Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị đó. Trường hợp nhất trí với kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra quyết định giao Chánh án Toà án nhân dân tối cao tổ chức nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét, quyết định. Trường hợp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không nhất trí với kiến nghị, đề nghị thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị quy định tại khoản 3 Điều này phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 2. Thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 310a của Bộ luật này hoặc kể từ ngày có quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định tại khoản 3 Điều 310a của Bộ luật này. Phiên họp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trường hợp xét thấy cần thiết, Toà án nhân dân tối cao có thể mời cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến tham dự phiên họp. Sau khi nghe Chánh án Toà án nhân dân tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan được mời tham dự, nếu có, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra quyết định hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định và tùy từng trường hợp mà quyết định như sau: Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án; Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Toà án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật; Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành. Chương XI: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ ….1,5 tiết I.Khái niệm và đặc điểm 1.Khái niệm 2.Ý nghĩa II.Thủ tục chung 1.Thủ tục sơ thẩm việc dân sự 1.Những quy định chung a.Thẩm quyền của Toà án b.Thủ tục nộp đơn yêu cầu c.Thủ tục giải quyết việc dân sự 2.Thủ tục phúc thẩm việc dân sự 1.Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm 2.Thủ tục phúc thẩm III.Các thủ tục giải quyết việc dân sự cụ thể 1.Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự 2. Thủ tục giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú 3.Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích, một người là đã chếtchết 4.Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài Thảo luận ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TÀI LIỆU HỌC TẬP Giáo Trình: - Đại học Luật TPHCM, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam - Tập Bài giảng Luật Tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật TPHCM. - Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật Hà nội, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2007. - Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Học viện tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2007. - Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2004. Văn bản pháp luật: - Bộ Luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb CTQG, Hà Nội năm 1998. - Bộ Luật Tố tụng dân sự của Cộng hoà liên bang Nga, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005. - Bộ Luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, bản dịch tiếng Việt, Hà Nội năm 2002. - Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. - Bộ Luật Tố tụng dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004. - Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. - Bộ luật Lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. - Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003. - Luật Hôn nhân và gia đình của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2000. - Luật Thương mại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004. - Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002. - Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. - Luật Trọng tài thương mại năm 2010. - Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. - Pháp lệnh án phí, lê phí. - Nghị quyết số 01/2005/NQ- HĐTP ngày 31/3/2005 của HĐTPTATC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS. - Nghị quyết 02/2005/NQ- HĐTP ngày 27/4/2005 của HĐTPTATC hướng dẫn thi hành một số quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS. - Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”. - Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm”. - Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4/8/2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm”. Sách - Nguyễn Văn Tiến, Bành Quốc Tuấn, Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài và việc bảo vệ quyền dân sự tại cơ quan tư pháp Việt Nam, NXB Lao động, 2011. - Đỗ Văn Đại, Nguyễn Văn Tiến, Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam về tố tụng dân sự, NXB Lao động - Nguyễn Văn Tiến, Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đại học quốc gia TPHCM năm 2010. - Nguyễn Minh Hằng, Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị- Hành chính, 2009. - Đào Văn Hội, Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004. - Kỹ năng hành nghề luật sư, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2001. - Sổ tay thẩm phán, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà nội năm 2001. Bài viết - Nguyễn Thị Vân Anh, “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp công ty của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 4/2007. - Ban biên tập, “Áp dụng khoản 2 Điều 92 BLTTDS”, Tạp chí Tòa án số 13/2006. - Phạm Công Bảy, “Áp dụng một số quy định của BLTTDS trong giải quyết các vụ án lao động”, Tạp chí Tòa án số 14/2005. - Nguyễn Công Bình, “Các quy định về chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm 2005. Đặc san về BLTTDS. - Nguyễn Việt Cường, “Người tham gia tố tụng”, Tạp chí Tòa án, số 8/2005. - Mai Ngọc Dương, “Vai trò của chế định Giám dốc thẩm trong Tố tụng Dân sự”, Tạp chí tòa án số 07 /2009. - Viên Thế Giang, “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2005. - Bùi Thị Huyền, “Thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự”, Tạp chí luật học số 1/2002. - Trần Đình Khánh, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và lao động theo BLTTDS năm 2004”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2005. - Nguyễn Ngọc Kiện, “Cần có văn bản hướng dẫn rõ quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, Số 21 tháng 11/2009. - Nguyễn Văn Khuê, “Một số ý kiến xung quanh vấn đề chứng cứ”, Tạp chí Kiểm sát số 10/2004. - Nguyễn Thị Thu Hà, “Về quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát”, Tạp chí luật học số 11/2009. - Nguyễn Minh Hằng, “Đại diện theo ủy quyền – từ pháp luật nội dung đến TTDS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2005 - Nguyễn Minh Hằng, “Tập quán – Nguồn luật hay nguồn chứng cứ”, Tạp chí Tòa án, số 5/2004. - Phan Chí Hiếu, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo BLTTDS và các ván đề đặt ra trong thực tiễn thi hành”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2005 - Trương Thị Hoa, “Cần sửa đổi quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con », Tạp chí Tòa án nhân dân, số 06 năm 2004. - Tào Thị Huệ, “Bàn về quyền khởi kiện của người đại diện hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Toà án nhân dân số 5/2010. - Trần Quang Huy, “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 17/2004. - Nguyến Quang Lộc, “Thẩm quyền của hội đồng xét xử giám đốc thẩm khi hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực theo pháp luật tố tụng- Những vấn đề cần tháo gỡ”, Tạp chí tòa án nhân dân số 21 năm 2006. - Lê Văn Luận, “Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của họ trong vụ án ly hôn”, Tạp chí Tòa án số 13/2006. - Lê Văn Luật, “Vấn đề người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của họ trong vụ án ly hôn”, Tạp chí Tòa án số 13/2006 - Tưởng Duy Luợng, “Một số quy định chung về giải quyết việc dân sự », Tạp chí Tòa án nhân dân Số 6 tháng 3 năm 2005. - Tưởng Duy Luợng, “Một số quy định chung về giải quyết việc dân sự », Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2005. - Tưởng Bằng Lương, “Một số vấn đề trong giải quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất », Tạp chí Tòa án số 4/2004. - Tưởng Duy Lượng, “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy định trong Bộ luật TTDS”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 10/2004 và số tháng 11/2004. - Đoàn Đức Lương, “Một số ý kiến về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế”, Tạp chí Kiểm sát, số 3/2006. - Tưởng Duy Lượng, “Chứng cứ và chứng minh-sự thay đổi nhận thức trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Đặc san Nghề luật số 10-2005. - Nguyễn Hồng Nam, “Vài ý kiến về thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài”, tạp chí Kiểm sát số 7/2009. - Phạm Hữu Nghị, “Về quyền định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2000. - Mai Dương Ngọc, “Tính công khai của phiên tòa Giám đốc thẩm dân sự”, Tạp chí tòa án nhân dân số 11-06/2009. - Nguyễn Thái Phúc, “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2005. - Nguyễn Thái Phúc, “Những chức năng cơ bản trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005. - Nguyễn Thị Hoài Phương, “Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp về Kinh doanh thương mại tại Tòa án những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện BLTTDS, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 03(263)/2010. - Nguyễn Thị Phượng, Giám đốc thẩm - "Xét" chứ không "xử", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, ngày 21/07/2009 (điện tử). - Phan Vũ Ngọc Quang, “Vai trò của VKSND trong TTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số tháng 4/2005. - Vương Hồng Quảng, “Từ thực tiễn giải quyết việc yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, xét thấy cần phải quy định bổ xung căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi », Tạp chí Tòa án, số 12 năm 2006. - Đinh Văn Quế, “Vấn đề giám đốc thẩm về dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí tòa án số 9 tháng 5 năm 2005. - Lê Kim Quế, “Một số vấn đề giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14 năm 2006. - Phạm Thái Quý, “Bàn về chế định chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số 12/2008. - Nguyễn Văn Tiến, “Đường lối xử lý và hậu quả những trường hợp không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2008. - Nguyễn Văn Tiến, “Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với vụ việc hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2008. - Đào Xuân Tiến, “Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/2009. - Đào Xuân Tiến, “Đảm bảo sự vô tư, khách quan của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/ 2008. - Quách Hữu Thái, “Thực tiễn TTDS rối trong xác định tranh chấp kinh doanh”, Báo pháp luật TPHCM, ngày 2.4.2010. - Đinh Văn Thanh, “Vai trò của Luật sư trong điều kiện mở rộng tranh tụng, Thông tin khoa học pháp lý số 2/2004. - Dương Quốc Thành, “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”, Tạp chí tạp chí Tòa án số 1/2004. - Phương Thảo, “Về án phí trong trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện tại cấp phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 269 BLTTDS”, Tạp chí Tòa án số 3/2006. - Trần Phương Thảo, “Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp luật TTDSVN”, Tạp chí Toà án nhân dân số 01/2009. - Hoàng Ngọc Thỉnh, “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm 2004. Đặc san góp ý Dự thảo BLTTDS. - Đồng Thị Kim Thoa, “Một số vấn đề về xác định thẩm quyền của Tòa án trong tư pháp quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2006. - Kiều Trang, “Những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 22 tháng 11/2009. - Võ Huy Triết, “Nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự”, Tạp chí Kiểm sát số 5, tháng 3/2009. - Hoàng Tuấn Trọng, “Bàn về vượt quá phạm vi khởi kiện”, Tạp chí Toà án nhân dân tháng 12/2008. - Trần Văn Tuân, “Phân biệt thẩm quyền của TAND và UBND trong việc giải quyết việc xin xác nhận cha mẹ”, Tạp chí Tòa án số 2/2004. - Điêu Ngọc Tuấn, “Giải quyết tranh chấp về quyền tác giả tại TAND theo thủ tục TTDS”, Tạp chí Tòa án số 14/2005. - Trần Anh Tuấn, “Nhập, tách vụ án dân sự – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án số 3/2005. - Trần Anh Tuấn, “Vấn đề nhập, tách các yêu cầu trong vụ việc dân sự và cơ chế chuyển hóa giữa các việc dân sự, vụ án dân sự”, Tạp chí Tòa án số 18/2006. - Trần Anh Tuấn, “Quyền khởi kiện và xác định tư cách tham gia tố tụng”, Tạp chí Toà án nhân dân tháng 12/2008. - Phạm Minh Tuyên, “Một số khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về giám định, chi phí giám định, định giá, án phí cùng một số kiến nghị”, Tạp chí Tòa án số 8/2008. - Nguyễn Quang Tuyến, “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 14/2004. - Trần Văn Trung, “Một số vấn đề đặt ra khi thực hiện thẩm quyền mới của Tòa án cấp huyện theo quy định của BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số 14/2006. - Trần Văn Trung, “Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát số 12/2004, tr.16. - Vũ Thị Hồng Vân, “Về mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2006. - Hồng Việt, “Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn” Website Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14.3.2008. - Hoàng Thu Yến, “Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong TTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2006. Tài liệu khác - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Những luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam”, Bộ tư pháp, Hà Nội năm 2002. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”, Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội năm 1996. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những quan điểm cơ bản của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”, Viện nhà nước và pháp luật, Hà Nội năm 2002. - Những vấn đề cơ bản của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004, Nxb Tư pháp, năm 2004. - Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Trường Đại học Luật Hà nội, Nxb CAND, năm 1999. - Kỷ yếu hội thảo pháp luật tố tụng dân sự Việt - Nhật, năm 1999. - Kỷ yếu hội thảo pháp luật tố tụng dân sự, Nhà pháp luật Việt- Pháp, Hà Nội năm 1999, 2000 và 2001. - Kỷ yếu dự án VIE/95/ 017 về Luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Hà nội năm 2001. - Đặc san chuyên đề về Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội tháng 8/2004. - Đặc san chuyên đề về Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật học, Hà Nội tháng 6/2004. - Dự án VIE/95/017, Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Về pháp luật tố tụng dân sự, NXB Văn hóa dân tộc-Tòa án nhân dân tối cao, 2000 - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001 Các website: - Http://www.Luatvietnam.com.vn - Http://www.Vietlaw.gov.vn - http://www.vietnamlawjournal.com.vn - http://www.nclp.gov.vn - http://westlaw.com - http://chinhphu.vn - http://toaan.gov.vn - http://tand.hochiminhcity.gov.vn 11.Nội dung chi tiết học phần: Chương I : KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ ………..(3 tiết) I.Một số khái niệm trong luật tố tụng dân sự 1. Khái niệm vụ việc dân sự Bao gồm các vụ án dân sự và việc dân sự a. Vụ án dân sự: Các tranh chấp dân dự, hôn nhân và gia đình, tranh chấp kinh doanh, thương mại, tranh chấp lao động….Tranh chấp là tình trạng xung đột về lợi ích pháp lý giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nói trên và bản thân các bên không thể giải quyết được những xung đột lợi ích đó, buộc phải cần đến sự can thiệp của Tòa án. Vụ án dân sự là đối tượng của thủ tục giải quyết án dân sự b. Việc dân sự : là những quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh , thương mại, lao động không có xung đột về lợi ích pháp lý nhưng cá nhân, tổ chức có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của mình hoặc của cá nhân, tổ chức khác, yêu cầu Tòa án công nhận quyền chủ thể trong những quan hệ pháp luật đó Việc dân sự là đối tượng của thủ tục giải quyết việc dân sự. 2.Trình tự TTDS tự sơ thẩm a.Trình tự giải quyết vụ án dân sự -Trình tự sơ thẩm -Trình tự phúc thẩm -Trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm -Trình tự thi hành án b.Trình tự giải quyết việc dân sự -Trình tự sơ thẩm -Trình tự phúc thẩm 3.Khái niệm luật TTDS a.Đối tượng điều chỉnh Theo điều 1 BLTTDS thì tòan bộ các nguyên tắc cơ bản trong TTDS, trình tự, thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự, trình tự thủ tục yêu cầu giải quyết việc dân sự, trình tự thủ tục giải quyết của Tòa án vụ việc dân sự, thi hành án dân sự, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan…được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật. Tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh trình tự, thủ tục xem xét và giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân và trình tự thủ tục thi hành các bản án, quyềt định dân sự hình thành một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt nam – đó là Luật TTDS. Việc thừa nhận sự tồn tại của một ngành luật trong hệ thống pháp luật không chỉ đơn thuần là vấn đề lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Tính độc lập của Luật TTDS thể hiện ở đối tượng điều chình và phương pháp điều chỉnh của nó. + Đối tượng điều chỉnh của Luật TTDS là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự b.Phương pháp điều chỉnh Phương pháp điều chỉnh của Luật TTDS gồm: Định đoạt và mệnh lệnh II. Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS 1. Khái niệm về nguyên tắc a. Khái niệm và ý nghĩa a. Khái niệm : Nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS là những tư tưởng chính trị - pháp lý chủ đạo định hướng cho toaøn bộ họat động của TA và những người tham gia tố tụng khác, được ghi nhận trong các quy phạm của Luật TTDS và phản ánh đặc thù của TTDS. + Tính khách quan + Tính chủ quan + Tính quy phạm b. Ý nghĩa : Nguyên tắc của luật – là một trong những đặc thù của pháp luật phản ánh bản chầt của pháp luật của mỗi nhà nước, mỗi hình thái kinh tế xã hội cụ thể. Nguyên tắc cơ bản : là nền tảng có tính định hướng cho việc xây dựng pháp luật TTDS, giải thích và áp dụng pháp luật TTDS. 2. Nội dung các nguyên tắc a. - Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong TTDS. ( Đ. 3) + Pháp chế và ý nghĩa của nó trong Nhà nước . + Định nghĩa về nguyên tắc Pháp chế trong TTDS + Nội dung của Nguyên tắc: yêu cầu tuân thủ triệt đeå các quy định của BLTTDS đối với các cơ quan tiến hành TT, người tiến hành TT, những người tham gia TT khác trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Sự vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLTTDS trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có thể là căn cứ để hủy bản án theo trình tự phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm + ý nghĩa của nguyên tắc: bảo đảm tính khách quan cho Bản án , quyềt định của TA, thực hiện nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, loại trừ moïi sự tùy tiện, lạm dụng . + Cơ chế bảo đảm nguyên tắc: họat động kieåm sát , họat động giám sát của TA cấp trên, họat động giám sát của nhân dân , quyền khiều nại, tố cáo… b. Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong TTDS ( Đ.,8) + Bình đẳng của công dân trước pháp luật – quyền cơ bản của công dân. Sự bình đẳng của các thanh phần kinh tế trước pháp luật - ghi nhận của Hiến pháp. Nguyên tắc này của BLTTDS là nguyên tắc Hiến pháp – cụ thể hóa trong lĩnh vực họat động TTDS. + nội dung của nguyên tắc: Công dân, tổ chức , cơ quan khi tham gia vào trong họat động TTDS đều có sự bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự không phân biệt dân tộc nam nữ, tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, hình thức sở hữu, hình thức tổ chức và những vấn đề khác. Thí dụ, Nếu họ tham gia với tư cách là nguyên đơn , họ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn. + Ý nghĩa của nguyên tắc: phản ánh tính chất dân chủ của TTDS trong nhà nước ta, thừa nhận cơ hội bình đẳng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. c. - Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự ( Đ. 11) + Nguyên tắc Hiền pháp ; thể hiện quyền tham gia quản lý và giám sát họat động của cơ quan Nhà nước của công dân. Hình thức tham gia trực tiếp. + Nội dung : Khi xét xử án dân sự sự tham gia của Hội thẩm nhân dân- đại diện cho dân cư ở đơn vị hành chính –lãnh thổ nhất định là bắt buộc . Thành phàn Hội đồng xét xử gồm thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trường hợp đặc biệt Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như thẩm phán .Phạm vi của nguyên tắc này có giới hạn: vụ án dân sự và một số giai đoạn + Ý nghĩa: Mở rộng sự tham gia của nhân dân, mở rộng khả năng giám sát của nhân dân trong họat động tư pháp, giúp cho họat động xét xử của TA gần với cuộc sống hơn. d. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ( Đ. 12) + Nguyên tắc Hiến pháp thể hiện tính độc lập tương đối của quyền lực Tư pháp trong Nhà nước , phản ánh đặc thù của họat động xét xử. + Nội dung : Tính độc lập của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử vụ án dân sự. Tính độc lập này thể hiện trong quan hệ giữa các thành viên của Hội đồng xét xử với nhau, với TA cấp trên, với Chánh án, Với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, với các cơ quan Nhà nước khác. Căn cứ cho hoạt động xét xử của Thầm phán và hội thẩm nhân dân là pháp luật . Hai yếu tố này có quan hệ qua lại với nhau. TA chỉ độc lập khi chỉ tuân theo pháp luật và khi thực hiện chức năng xét xử của mình- liên quan đến việc xác định các sự kiện tình tiết của vụ án, đến việc áp dụng pháp luật thì TA cần phải độc lập. + Ý nghĩa : Bảo đảm tính khách quan , công minh của bản án, sáng tỏ sự thật khách quan. e.Nguyên tắc xét xử tập thể ( Đ. 14) + Các vụ án dân sự- những tranh chấp pháp lý –xung đột lợi ích của các bên tham gia. Giải quyết vụ án – làm sáng tỏ những tình tiết, sự kiện và đánh giá pháp lý, vận dụng pháp luật …đòi hỏi sự thận trọng trong việc xem xét đánh giá các tình tiềt ,các khía cạnh pháp lý. Do vậy, việc xét xử vụ án dân sự thực hiện bởi một tập thể với những nhình thức khác nhau như Hội đồng xét xử gồm hai Hội thẩm nhân dân , một thẩm phán ở cấp sơ thẩm hoặc ba thẩm phán ở cấp phúc thẩm, TA chuyên trách của TANDTC hoặc Ủy ban thẩm phán hay Hội đồng thẩm phán. + Nội dung : Tính tập thể với các hình thức khác nhau khi xét xử các vụ án dân sự là quy định bắt buộc, sự vi phạm quy định về tính tập thề, về thành phần của những hình thức tập thể đó được coi là vi phạm tố tụng nghiệm trọng. Khi xét xử tập thể - gồm nhiều thanh viên khác nhau thì nguyên tắc quyết định theo đa số là nguyên tắc được coi là hợp lý nhất- thể hiện ý chí đại diện cho tập thể. + ý nghĩa của nguyên tắc: Tăng thêm khả năng loại trừ những sai lầm tư pháp, bảo đảm tính công minh, có căn cứ của bản án, quyết định của TA. g Nguyên tắc xét xử công khai (Đ. 15) + Nguyên tắc Hiến pháp thể hiện tính dân chủ của TT, mở rộng sự tham gia , giám sát của nhân dân đối với họat động xét xử của TA + Nội dung: Việc xét xử các vụ án dân sự ở các TA các cấp trong phạm vi lãnh thổ VN đều mở rộng cửa cho sự tham gia của dân chúng quan tâm đến phiên tòa. Mọi công dân đủ 16 tuổi đều có quyền tham dự các phiên tòa, không ai có quyền cản trở. Trường hợp ngoại lệ: K.2 Đ. 15 + Ý nghĩa: Như là cơ sở pháp lý cho họat động giám sát của nhân dân với việc xét xử của TA, tăng cường tính trách nhiệm của TA trong việc thựchiện chức năng xét xử của mình. Ngòai ra , còn có ý nghĩa về tuyên truyền giáo dục pháp luật , răn đe, phòng ngữa vi phạm pháp luật trong các quan hệ dân sự, Hôn nhân và gia đinh, trong họat động kinh doanh, thương mại, lao động… h. Nguyên tắc thực hiện cheá độ hai cấp xét xử ( Đ. 17) + Quyết định thực chất vụ việc dân sự được giải quyết ở cấp sơ thẩm Việc xét xử của TA là quá trình vận dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể thực hiện bởi những con người cụ thể. Do vậy sai lầm tư pháp là điều hòan tòan có thể xảy ra. Để khắc phục kịp thời những sai lầm , thiếu sót tư pháp của cấp sơ thẩm cần có cơ chế xem xét lại bàn án, quyềt định của cấp sơ thẩm khi chúng chưa có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm là cấp có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyềt định sơ thẩm . Điểm dừng của việc xét xử. + Nội dung : - Bản án, quyềt định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay. Luật thừa nhận quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án., quyết định sơ thẩm khi thấy có dấu hiệu không có căn cứ hoặc không hợp pháp. Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là cơ sở pháp lý cho việc xét xử phúc thẩm. Luật thừa nhận khả năng rộng rãi việc kháng cáo, kháng nghị. - Xét xử phúc thẩm là việc kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ của bản án, quyềt định sơ thẩm thực hiện bởi Cấp TA cao hơn , có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn hơn để có thể phát hiện , sửa chữa kịp thời những sai lầm tư pháp của cấp sơ thẩm. Quyềt định của cấp phúc thẩm là quyết định cuối cùng , có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tuyên. -Trình tự xét xử sơ thẩm phúc thẩm được xem như là trình tự thông thường trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. + Ý nghĩa: Là bảo đảm pháp lý cho tính công minh của bản án ,quyết định của TA . . i.Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự ( đ. 5) + Đối tương xét xử của TA là những vụ việc dân sự- những quan hệ của luật tư trong đó các chủ thể có quyền tự do ý chí quyềt định về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung khi tham gia vào TTDS còn là chủ thể của quan hệ tố tụng- có các quyền và nghĩa vụ tố tụng , những phương tiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên tắc về quyền quyềt định và tự định đọat của Luật TTDS là sự phản ánh nối dài của quyền tự định đọat trong quan hệ của luật nội dung. Trong TTDS các đương sự không chỉ có quyền tự định đọat các quyền nội dung mà còn có thể tự định đọat các quyền tố tụng theo sự lựa chọn của mình mà họ cho rằng đó là cách tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền tự định đọat của đương sự ảnh hưởng có tính quyết định đến tiến trình của TTDS . Quyền được nhìn nhận như một nguyên tắc cơ bản và đặc thù của TTDS vì nó là nền tảng xác định quan hệ giữa các bên đương sự với TA trong tiến trình TTDS. Nguyên tắc tự định đọat của đương sự là sự thừa nhận quyền tự định đọat của đương sự là động lực của TTDS, là nhân tố quyết định chủ yếu sự khởi đầu, vận động và chấm dứt của TTDS. + Nội dung : -Họat động TTDS được bắt đầu, vận động từ giai đọan này sang giai đọan khác hoặc chấm dứt phụ thuộc chủ yếu vào sự tự định đọat của các đương sự. Cụ thể: -vụ việc dân sự được TA thụ lý trên cơ sở chủ yều là đơn khởi kiện vả yêu cầu giải quyềt của đương sự. Không có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu của đương sự thì không có TTDS. Trường hợp TTDS được khởi động trên cơ sở đơn khởi kiện của tổ chức, cơ quan vì lợi ích của người khác hay lợi ích của xã hội., lợi ích của Nhà nước là những trường hợp đặc biệt. - Các bên đương sư đưa ra những yêu cầu gì thì TA chỉ xem xét và giải quyềt trong phạm vi những yêu cầu đó. TA không có quyền xem xét và giải quyết những gì mà các bên đương sự không yêu cầu. Sự vượt quá giới hạn yêu cầu của đương sự được thực tiễn xét xử nhìn nhận như sự vi phạm tố tụng nghiêm trọng. - Trong quá trình giải quyềt vụ việc dân sự, các bên đương sự có quyền thay đổi yêu cầu của mình. TA có nghĩa vụ tôn trọng lựa chọn đó của các bên. - Trong quá trình giải quyềt vụ việc dân sự các đương sự có quyền rút lại yêu cầu của mình hoặc hòa giải với nhau để chấm dứt việc giải quyềt vụ việc dân sự. Tòa án phải tôn trọng sự lựa chọn của đương sự nếu sự lựa chọn đó là tự nguyên và không trái pháp luật Nguyên tắc này có một số ngoại lệ . + Ý nghĩa của nguyên tắc: đề cao tính tích cực tố tụng của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và hạn chế sự can thiệp không cần thiết của TA, hạn chế thời gian tố tụng và chi phí tố tụng. -k.Nguyên tắc hòa giải trong TTDS (đ. 10) + Hòa giải là một trong những biểu hiện của quyền tự định đọat của đương sự. Hòa giải là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên về giải quyết vụ việc của các bên với sự giúp đỡ của TA. Hậu quả của hòa giải là chấm dứt giaỉ quyềt vụ án dân sự, chấm dứt hoạt động tố tụng. Đây là cách thức giải quyềt vụ án dân sự mà không cần đến bản án của TA có lợi cho các bên và có lợi cho cả TA. Hóa giải lúc này được tiến hành dưới sự giám sát và trợ giúp của thẩm phán. Thẩm phán là người hòa giải. + Nội dung: Hòa giải được nhìn nhận như một thủ tục bắt buộc trong tiến trình giải quyềt vụ án dân sự trừ những trường hợp không được hòa giải hoặc không thể hòa giải theo quy định của pháp luật. TA có nghĩa vụ tiến hành thủ tục hòa giải. Vi phạm quy định tiền hành thủ tục hòa giải được xem xét như vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng. . TA , cụ thể là thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc , là người tiến hành hòa giải các bên. TA khác với người hòa giải ngoài tố tụng khác ở chỗ: TA không chỉ thực hiện chức năng của người hòa giải mà còn thực hiện chức năng của người đại diện cho quyền lực NHà nước, giám sát sự tôn trọng pháp luật trong quá trình hòa giải của các bên và ghi nhận kềt quả hòa giải. + Ý nghĩa : Thể hiện sự tôn trọng của Pháp luật đối với quyền tự định đõat của đương sự và sự khuyên khích các bên giải quyềt vụ việc của mình mà không cần đến bản án của TA thông qua sự trợ giúp của thẩm phán. Chương II:CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ …(6 tiết) I.Chủ thể tiến hành tố tụng 1.Cơ quan tiến hành tố tụng a. Tòa án nhân dân -Theo 127 Hiến pháp 1992: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam -Theo Luật Tổ chức TAND :Điều 1 quy định"… Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do , danh dự và và nhân phẩm của công dân…" nhiệm giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh-thương mại và giải quyết các yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh- thương mại -Tổ chức Tòa án nhân dân được xây dựng -Theo Bộ luật TTDS: Tòa án có trách theo đơn vị hành chính. Ở trung ương có Tòa án nhân dân tối cao, cấp tỉnh là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là Tòa án nhân dân cấp huyện. a.Nhiệm vụ , quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án dân sự: -Thủ tục sơ thẩm: +Thụ lý vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh doanh thương mại +Giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự +Hòa giải vụ án dân sự +Ap dụng các biện pháp để giải quyết vụ án: Biện pháp khẩn cấp tạm thời, thu thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không thể thu thập được, cử người phiên dịch ,tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án và các biện pháp khác +Xét xử sơ thẩm +Ra bản án, quyết định đúng đắn, khách quan, chính xác và đúng pháp luật -Thủ tục phúc thẩm: +Xem xét và chấp nhận kháng cáo +Chuẩn bị xét xử phúc thẩm +Ap dụng các biện pháp do luật định để tiến hành tố tụng +Xét xử phúc thẩm -Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: +Xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm b.Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết các việc dân sự : +Nhận đơn yêu cầu và tài liệu chứng cứ +Ra quyết định mở phiên họp +Tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự +Ra quyết định giải quyết việc dân sự +Phúc thẩm quyết định bị kháng cáo, kháng nghị b. Viện kiểm sát nhân dân -Theo điều 137 Hiến pháp: Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất -Theo Điều 20 Luật tổ chức Viện kiểm sát:"Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời." Khi thực hiện chức năng kiểm sát ,VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: +Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án +Tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến +Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân +Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng +Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm -Theo Bộ luật TTDS: +Điều 21 Bộ luật TTDS quy định :"Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu , kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật " +Tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án , kháng nghị bản án , quyết định giải quyết vụ án dân sự +Tham dự phiên họp giải quyết việc dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết việc dân sự ; kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự +Kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời +Tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt nam bản án , quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài và kháng nghị các quyết định giải quyết công nhận hay không công nhận +Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm , tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm +Có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và cấp dưới bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật Ngoài việc kiểm sát hoạt động tố tụng tại Tòa án, Viện kiểm sát còn kiểm sát hoạt động thi hành án : +Kiểm sát Cơ quan thi hành án , Chấp hành viên , cơ quan ,tổ chức và cá nhân có liên quan trong việc thi hành án +Yêu cầu Cơ quan thi hành án , Chấp hành viên ra quyết định thi hành đúng quy định của pháp luật +Yêu cầu Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên cung cấp hồ sơ , tài liệu liên quan đến việc thi hành +Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án +Kháng nghị các quyết định thi hành án. 2.Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự Là những chủ thể theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, có quyền áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc dân sự. Theo quy định tại khoản 2 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, a. Chánh án Tòa án -Chánh án Tòa án là người đứng đầu Tòa án -Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án(điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự) c.. Thẩm phán Là người theo quy định của pháp luật có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng để giải quyết các vụ việc dân sự -Tiêu chuẩn Thẩm phán (Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân) -Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán (điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự) d.Hội thẩm nhân dân -Là người có quyền tham gia vào việc xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự. -Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân (Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân) -Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân (điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự) đ..Thư ký Tòa án -Là người giúp việc cho Thẩm phán trong hoạt động tiến hành tố tụng và làm thư ký phiên tòa -Nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án (điều 43 Bộ luật tố tụng dân sự) e.Viện trưởng Viện kiểm sát g.Kiểm sát viên II.Chủ thể tham gia tố tụng 1.Năng lực chủ thể Năng lực chủ thể là khả năng mà chủ thể đó theo quy định của pháp luật có quyền tham gia tố tụng. Năng lực chủ thể tố tụng dân sự bao gồm: Năng lực pháp luật tố tụng dân sư và năng lực hành vi tố tụng dân sự -Năng lực pháp luật tố tụng dân sự Là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. *Năng lực pháp luật của cá nhân *Năng lực pháp luật của cơ quan, tổ chức -Năng lực hành vi tố tụng dân sự Là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự. *Năng lực hành vi của các nhân (điều 57 BLTTDS) Các mức độ năng lực hành vi của cá nhân: @/Cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ Là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự @/Cá nhân có năng lực hành vi chưa đầy đủ Là cá nhân đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động, tham gia hợp đồng dân sự hoặc bồi thường thiệt hại bằng tài sản riêng. @/Cá nhân không có năng lực hành vi Là người dưới 18 tuổi, người mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự *Năng lực hành vi của cơ quan, tổ chức Cơ quan, tổ chức được thành lập hợp pháp có năng lực hành vi khi được thành lập theo trình tự do luật định Đương sự trong tố tụng dân sự là khái niệm dùng để chỉ cho nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự chỉ có trong các vụ án dân sự Đương sự là nhóm chủ thể quan trọng trong tố tụng dân sự. Họ có quyền làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quá trình tố tụng dân sự. Đương sự khi tham gia tố tụng là nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình. Họ có các quyền năng mà các chủ thể khác không có. 2.Đương sự a.Nguyên đơn -Khái niệm: Là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm -Đặc điểm: +Là người đã khởi kiện hoặc được người khác khởi kiện +Giả thiết rằng quyền lợi họ bị xâm phạm -Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn(điều 58, 59 Bộ luật tố tụng dân sự) b.Bị đơn - Khái niệm: Là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. -Đặc điểm: +Là người tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn, của người khởi kiện khác +Giả thiết cho rằng họ xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn -Quyền, nghĩa vụ của bị đơn (điều 60 Bộ luật tố tụng dân sự) c.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan -.Khái niệm Là người tuy không khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chia thành hai loại: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập -.Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Điều 61 Bộ luật tố tụng dân sự -Đồng tham gia tố tụng và kế thừa tố tụng -Khái niệm: Là trường hợp có nhiều người tham gia tố tụng trong một vụ án dân sự. Đồng tham gia tố tụng bao gồm đồng nguyên đơn, đồng bị đơn . Đồng nguyên đơn là trường hợp nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức cùng khởi kiện một cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. Đồng bị đơn là trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. III.Những người tham gia tố tụng khác Đây là nhóm chủ thể bổ trợ, giúp cho Tòa án và đương sự làm sáng tỏ nội dung vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Họ tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án, đương sự. Họ không có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án. a.Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự -Khái niệm +Luật sư (Luật luật sư) +Cá nhân (theo điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự) -Quyền , nghĩa vụ của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự ( điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự) b.Người làm chứng -Khái niệm Là người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng -Quyền, nghĩa vụ (điều 66 Bộ luật tố tụng dân sự) c.Người giám định -Khái niệm Là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn hoặc được Tòa án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự -Quyền, nghĩa vụ (điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự) d.Người phiên dịch -Khái niệm Là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt -Quyền, nghĩa vụ (điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự) đ.Người đại diện -Khái niệm Đại diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Đại diện có hai loại: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền -Đại diện theo pháp luật Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định -Những trường hợp chỉ định người đại diện (điều 76 Bộ luật tố tụng dân sự) - Đại diện theo ủy quyền Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện -Chế độ pháp lý về đại diện -Quyền, nghĩa vụ của người đại diện (điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự) -Những trường hợp không được đại diện (điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự) -Chấm dứt đại diện (điều 77, 78 Bộ luật tố tụng dân sự) ChươngIII: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN……6 tiết I.Thẩm quyền theo vụ việc a.Khái niệm: 1Thẩm quyền giải quyết tranh chấp -Những vụ việc do luật Dân sự quy định (điều 25 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Hôn nhân và gia đình quy định (điều 27 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Thương mại quy định (điều 29 BLTTDS) -Những vụ viêc do luật Lao động quy định (điều 31 BLTTDS) Thẩm quyền giải quyết yêu cầu Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án có quyền giải quyết các vụ việc sau: -Những vụ việc do luật Dân sự quy định (điều 26 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Hôn nhân và gia đình quy định (điều 28 BLTTDS) -Những vụ việc do luật Thương mại quy định (điều 30 BLTTDS) -Những vụ viêc do luật Lao động quy định (điều 32 BLTTDS) 2.Thẩm quyền theo cấp tòa án a. -Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện Sơ thẩm những vụ việc thuộc thẩm quyền chung trừ các loại việc của Tòa án nhân dân cấp tỉnh( điều 33 BLTTDS) b. -Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh -Tòa án cấp tỉnh có quyền sơ thẩm những vụ việc sau: +Các vụ việc dân sự mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài +Các tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại các điểm k,l,m,n,o khoản 1 điều 29 BLTTDS +Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 2 điều 31 +Các yêu cầu dân sự quy định tại K5 điều 26 BLTTDS +Các yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại K6 điều 28 BLTTDS +Các yêu cầu về lao động quy định tại điều 32 BLTTDS +Các yêu cầu về KD-TM quy định tại điều 30 BLTTDS Ngoài ra, thẩm quyền của Tòa án các cấp còn được quy định theo Nghị quyết 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 và Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại điều 33 của Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, NQ 1036 của UBTVQH -Phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện -Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật c.Thẩm quyền xét xử xủa Tòa án tối cao -Phúc thẩm các bản án, quyết định -Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật III.Thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn 1..Thẩm quyền theo lãnh thổ -Nơi bị đơn cư trú , làm việc .Đối với pháp nhân nơi bị đơn có trụ sở -Nơi nguyên đơn cư trú, làm việc nếu có thỏa thuận bằng văn bản -Nơi có bất động sản nếu tranh chấp về bất động sản -Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự (K2 điều 35 BLTTDS) 2.Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu a. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Thẩm quyền theo sự lựa chọn của người yêu cầu ( điều 36 BLTTDS) IV.Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền a.Khaí niệm tranh chấp thẩm quyền Là sự xung đột về việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các Tòa án trong hệ thống Tòa án và giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan nhà nước khác về việc thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự -Là sự xung đột về việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự giữa các Tòa án cùng cấp,giữa các tòa khác nhau và giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới -Là sự xung đột về việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự giữa Tòa án với các cơ quan nhà nước khác b.Giải quyết tranh chấp thẩm quyền Là biện pháp xử lý các xung đột về việc xác định nhiệm vu , quyền hạncủa Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự -Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh -Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các Tòa án cấp huyện khác tỉnh hoặc giữa các Tòa án cấp tỉnh với nhau. (K2, K3 điều 37 BLTTDS) Chương IV: ÁN PHÍ, LỆ PHÍ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ………..(1,5 tiết) I.An phí 1.Khái niệm, ý nghĩa a.Khái niệm Là số tiền mà đương sự phải nộp vào Ngân sách nhà nước khi vụ án đã giải quyết xong và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật b.Ý nghĩa -Là phương thức đền bù cho chi phí mà Nhà nước bỏ ra để giải quyết vụ án dân sự -Ngăn ngừa những việc kiện không có căn cứ 2.Các loại án phí a.-An phí sơ thẩm +Mức án phí +Chủ thể phải chịu án phí b.An phí phúc thẩm +Mức án phí +Chủ thể phải chịu án phí 3.. Tạm ứng án phí a.Khái niệm và ý nghĩa .Khái niệm Là số tiền mà đương sự tạm nộp khi khởi kiện, đưa ra yêu cầu hoặc kháng cáo .Ý nghĩa -Là điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án -Tăng cường trách nhiệm của đương sự trong việc khởi kiện, đưa ra yêu cầu hoặc kháng cáo b.tạm ứng án phí sơ thẩm Mức tạm ứng án phí -Tạm ứng án phí sơ thẩm (dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại) -Tạm ứng án phí phúc thẩm (dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại) Chủ thể phải nộp -Người khởi kiện -Yêu cầu phản tố, đương sự đưa ra yêu cầu với người khởi kiện -Người kháng cáo .Xử lý tiền tạm ứng án phí b.Tạm ứng án phí phúc thẩm 4.Những trường hợp được miễn, không phải nộp án phí II.Lệ phí, chi phí tố tụng 1.Lệ phí a.Khái niệm Là số tiền mà người yêu cầu phải nộp vào Ngân sách nhà nước khi yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự và quyết định đã có hiệu lực pháp luật b.Mức lệ phí c.Chủ thể phải chịu lệ phí 2.Chi phí tố tụng a.Khái niệm Là số tiền mà đương sự phải nộp khi yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định, định giá tài sản để giải quyết vụ án dân sự b.Các loại chi phí tố tụng và người phải nộp Từ điều 135 đến điều 145 Bộ luật Tố tụng dân sự Chương V: CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ…… 1,5 tiết . I.Chứng cứ 1. Khái niệm Chứng cứ là những thông tin về các tình tiềt, sự việc liên quan đến vụ vụ việc dân sự được thu thập, kiểm tra và đánh giá theo đúng trình tự do luật định mà TA dùng làm căn cứ cho việc giải quyềt đúng đắn vụ việc dân sự. 2. Nguồn chứng cứ Khái niệm về nguồn chứng cứ Trong các lĩnh vực khoa học khác, các nhà nghiên cứu tự nhiên, lịch sử .. có thể sử dụng những thông tin tồn tại trong bất kỳ hình thức nào để nhận thức về đối tượng nghiên cứu. Thí dụ, các nhà sử học có thể chứng minh về sự tồn tại của Nhà nước Văn lang thông qua những thông tin- kết quả nghiên cứu khảo cổ học, thông qua những thông tin trong các truyền thuyềt dân gian và những tài liệu sử học khác. Họat động chứng minh tư pháp- cũng là một quá trình họat động nhận thức nhưng có đặc thù. Quá trình chứng minh chỉ có thể sử dụng những thông tin dưới hình thức tố tụng và từ những nguồn do luật định. Những thông tin thực tế thu nhận được từ những nguồn không do luật quy định không được thừa nhận là chứng cứ. Một số tài liệu sử dụng khái niệm “ phương tiện chứng minh “ như là khái niệm đồng nghĩa. Nguồn chứng cứ là hình thức tồn tại của chứng cứ , hình thức chứa đựng chứng cứ - nội dung bên trong. Chứng cứ chỉ có thể hình thành và thu thập từ những nguồn được quy định trong điều 82 BLTTDS 3.Nguyên tắc xác định chứng cứ II.Chứng minh trong tố tụng dân sự 1.Chủ thể chứng minh a.Người đưa ra yêu cầu b.Người phản đối yêu cầu 2.Những vấn đề cần phải chứng minh a.Yêu cầu của đương sự b.Quy định của pháp luật nội dung CHƯƠNG VI: THỦ TỤC SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 9 TIẾT I.KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ 1. Khởi kiện vụ án dân sự a.Quyền khởi kiện vụ án dân sự Là quyền tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc của nhà nước trong trường hợp bị vi phạm hay tranh chấp b.Chủ thể khởi kiện -Chủ thể khởi kiện và mục đích c.Thủ tục khởi kiện Hình thứckhởi kiện Nộp tạm ứng án phí 2.Thụ lý vụ án dân sự a.Khái niệm thụ lý vụ án dân sự Là hành vi tố tụng của Tòa án có thẩm quyền chấp nhận việc khởi kiện của người khởi kiện Ý nghĩa của thụ lý: -Là cơ sở làm phát sinh vụ án dân sự -Là thời điểm xác định thời hạn tố tụng 2.Thủ tục thụ lý a.Nhận và xem xét đơn b.Trả lại đơn c.Thụ lý II. CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM 1. Thời hạn chuẩn bị xét xử 2. Các thủ tục tố tụng a.Hòa giải trong tố tụng dân sự -Khái niệm Để đảm bảo nguyên tắc tự định đọat của các đương sự thì hòa giải là một thủ tục bắt buộc khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự. Điều 10 Bộ luật TTDS qui định Tòa án có trách nhiệm, tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự. Hòa giải mang ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng dân sự vì việc hòa giải không chỉ giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn củng cố sự đoàn kết trong nhân dân. Việc hòa giải còn làm đơn giản thủ tục, tiết kiệm thời gian và công sức của các đương sự và cơ quan nhà nước. Hòa giải là việc Tòa án hướng dẫn các đương sự thương lượng, thỏa thuận những nội dung tranh chấp, mâu thuẫn. -Phạm vi hòa giải Những vụ án phải tiến hành hòa giải Những vụ án không được tiến hành hòa giải (điều 181 BLTTDS) Những vụ án không tiến hành hòa giải được (điều 182 BLTTDS) -Thủ tục hòa giải Nguyên tắc hòa giải Việc hòa giải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Ngoài ra, nội dung thỏa thuận của các đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. -Trình tự hòa giải Mục đích quan trọng nhất của phần hòa giải là đạt được sự thỏa thuận của đương sự trong giải quyết tranh chấp giữa các đương sự đó. Trong phiên hòa giải thì thành phần phiên hòa giải bao gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải, Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải ; các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự ; người phiên dịch trong trường hợp cần thiết. Trong Bộ luật TTDS qui định: Thẩm phán là người chủ trì phiên hòa giải còn thư ký là người ghi biên bản hòa giải. -Thủ tục ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự b.Tạm đình chỉ Trong quá trình giải quyết vụ án có thể xuất hiện những tình huống (căn cứ) mà Tòa án buộc phải tạm dừng việc giải quyết vụ án được gọi là tạm đình chỉ. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án là sự chấm dứt tạm thời các hành vi tố tụng khi các căn cứ khách quan xuất hiện ngăn cản sự phát triển của quá trình tố tụng và không thể xác định được các căn cứ này khi nào mất đi cũng như khi nào xuất hiện khả năng phục hồi quá trình tố tụng. Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án được quy định tại điều 189 BLTTDS. Đối với các vụ án bị tạm đình chỉ thì Tòa án không xóa tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý và thời gian ra quyết định tạm đình chỉ đó. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Cũng như bản án, quyết định tạm đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm c.Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Đình chỉ là sự chấm dứt hoạt động tố tụng tại Tòa án. Căn cứ đình chỉ được quy định tại điều 192 BLTTDS. Khi Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó nếu vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về thành phần đương sự và quan hệ pháp luật có tranh chấp trừ các trường hợp qui định tại các điểm c, e, g khoản 1 điều 192 BLTTDS. Cần chú ý với các điểm c, e khoản 1 điều 192 đương sự vẫn có thể khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Đối với điểm g khỏan 1 điều 192 cần chú ý nếu đương sự là doanh nghiệp, hợp tác xã không bị Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì có thể khởi kiện lại. Quyết định đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm d.Biện pháp khẩn cấp tạm thờI 1.Khái niệm Là biện pháp do Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo đảm thi hành án 2.Các biện pháp khẩn cấp tạm thờI (điều 102 Bộ luật TTDS) III. PHIÊN TÒA SƠ THẨM I.Người tham gia phiên tòa -Hoãn phiên tòa 2..Trình tự phiên tòa sơ thẩm Trình tự của phiên tòa sơ thẩm được bộ luật TTDS qui định bao gồm các bước : thủ tục bắt đầu phiên tòa , hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, Tòa án phải đảm bảo tính khách quan của người làm chứng (Đ.216). a.Thủ tục bắt đầu phiên tòa : Thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm được qui định tại các điều 213, 214, 215, 216 BLTTDS. Thủ tục bắt đầu phiên tòa được bắt đầu từ thủ tục khai mạc phiên tòa. Đây là thủ tục được thực hiện trước khi tòa án tiến hành xét xử vụ án. Theo qui định của BLTTDS thì chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tiếp đến Thư ký tòa án báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt hay vắng mặt của những người tham gia phiên tòa cũng như lý do vắng mặt. Chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người tham gia phiên tòa. Sau đó, chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác, giới thiệu họ tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch về việc họ có yêu cầu thay đổi ai hay không. Trong trường hợp có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét quyết định. Hội đồng xét xử có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận với việc nêu rõ lý do. b.Thủ tục hỏi tại phiên tòa : Thủ tục hỏi tại phiên tòa được qui định tại các điều từ điều217 đến điều 231 của BLTTDS. Thủ tục hỏi được bắt đầu bằng việc chủ tọa hỏi đương sự có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập của đương sự hay không. Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu sự thay đổi bổ sung yêu cầu của đương sự không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu. Những quy định này bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9, BLTTDS). Đối với trường hợp đương sự rút 1 phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với một phần hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút. Việc thay đổi địa vị tố tụng cũng được BLTTDS qui định tại điều 219. Theo đó, trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và ngược lại. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố nhưng người có quyền và nhgĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền và nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn và người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. Đối với các đương sự mà sau khi thay đổi địa vị tố tụng không còn liên quan đến quan hệ tranh chấp do tòa án tiếp tục giải quyết thì họ không cần phải tiếp tục tham gia tố tụng nữa. Bộ luật TTDS qui định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại điều 220. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án và quyết định này có hiệu lực pháp luật. Khi các đương sự không thể tự thỏa thuận với nhau được về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án từ việc nghe lời trình bày của các đương sự theo trình tự nguyên đơn, bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Về thứ tự hỏi tại phiên tòa được thực hiện theo thứ tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước, kế tiếp là Hội thẩm nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, kiểm sát viên sẽ hỏi sau đương sự trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Ngoài ra, trước đây Kiểm sát viên chỉ hỏi sau Hội đồng xét xử thì nay Kiểm sát viên phải hỏi sau các đương sự. Việc thay đổi trình tự hỏi tại phiên tòa đã thể hiện tính dân chủ trong phiên tòa dân sự, đề cao quyền tự định đoạt, quyền bảo vệ của các đương sự tại phiên tòa mà tránh sự can thiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi tiến hành việc xét hỏi tại phiên tòa, vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét. Để bảo đảm cho các chứng cứ được xem xét một cách toàn diện, đầy đủ trong vụ án nhằm tìm ra sự thật khách quan trong trường hợp cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với các đương sự đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng hoặc xét thấy cần thiết Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình tại phiên tòa trừ trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư cá nhân theo yêu cầu của đương sự. Đối với các tài liệu vụ án, Hội đồng xét xử quyết định công bố các tài liệu của vụ án trong các trường hợp : - Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã có lời khai. - Những lời khai của người tham gia tố tụng tại phiên tòa mâu thuẫn với những lời khai trước đó. -Trong những trường hợp khác mà Hội đồng xét xử thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án trong các trường hợp đặc biệt. Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có vấn đề gì nữa thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc việc hỏi và chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. c.Tranh luận tại phiên tòa Nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTDS được mở rộng hơn qua việc mở rộng quyền và khả năng tranh luận của các đương sự, của người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa. Thời gian tranh luận cũng như số lần phát biểu ý kiến về một vấn đề không bị hạn chế, chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, trong phần tranh luận Hội đồng xét xử vẫn giữ vai trò trung tâm. Nói chung các qui định trong Bộ luật TTDS về tranh luận tại phiên tòa đã phát huy tính chủ động, quyền tự định đoạt, nâng cao quyền dân chủ của công dân trong hoạt động tố tụng dân sự đồng thời vẫn đảm bảo được sự hài hòa, sự phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. d.Nghị án và tuyên án Nghị án và tuyên án là phần tiếp theo sau khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách giải quyết theo đa số đối với từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số được trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án. Việc nghị án chỉ được căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc hỏi tại phiên tòa, xem xét ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên. Khi nghị án phải được lập biên bản nghị án và được các thành viên Hội đồng xét xử sẽ ký vào trước khi tuyên án. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp đòi hỏi phải có thời gian dài trong việc nghị án thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá 5 ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa biết thời gian và địa điểm tuyên án. Nếu Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo qui định. Khi tuyên án thì tất cả mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa đọc bản án và giải thích cho đương sự quyền kháng cáo. Trong trường hợp đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sáng ngôn ngữ mà họ biết. 3.Bản án sơ thẩm 1.Khái niệm và bản chất bản án sơ thẩm a.Khái niệm : Bản án là văn bản từ cơ quan nhà nước, nhân danh nước CHXHCN VN có thẩm quyền thực hiện họat động xét xử nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự có tranh chấp. Do bản án của Tòa án là một văn bản pháp lý của hoạt động xét xử cho nên nội dung và trình tự ra bản án cũng được Bộ luật tố tụng DS qui định cụ thể và rõ ràng. b.Bản chất Bản án là văn bản quan trọng nhất của hoạt động xét xử và nó có tính quyền lực và tính cưỡng chế. Tính quyền lực và tính cưỡng chế của bản án sơ thẩm được thể hiện ở việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến vụ án đều phải chấp hành và thực hiện theo quyết định của bản án. 2.Nội dung và cơ cấu bản án : Bản án gồm 3 phần : phần mở đầu, phần nội dung và nhận định, phần quyết định. + Phần mở đầu : Ghi rõ tên Tòa án xét xử sơ thẫm, số và ngày thụ ý vụ án, số bản án và ngày tuyên án, họ tên các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, tên địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cơ quan tổ chức khởi kiện, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đối tượng tranh chấp; số ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử, xét xử công khai hoặc xét xử kín, thời gian và địa điểm xét xử + Phần nội dung vụ án và nhận định: Ghi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, khởi kiện của cơ quan, tổ chức; yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ; nhận định của Tòa án; điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà Tòa án căn cứ để giải quyết vụ án. Trong phần nhận định, Tòa án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. + Phần quyết định: Ghi các quyết định của Tòa án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án, trướng hợp có quyết định thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó. 4.Những thủ tục tiến hành sau phiên tòa a.Sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm Theo qui định tại điều 240 Bộ luật TTDS thì sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung phải được thông báo ngay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung. Đồng thời việc sửa chữa, bỗ sung bản án cũng được thông báo cho cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Việc sửa chữa, bỗ sung bản án phải do Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên của Hội đồng xét xử vụ án đó thực hiện. Trường hợp Thẩm phán đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán thì Chánh án Tòa án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung. b. Sửa chữa, bổ sung biên bản phiên tòa c.Cấp trích lục bản án, quyết định CHƯƠNG IX: THỦ TỤC PHÚC THẨM DÂN SỰ….3 tiết I. Khái niệm và ý nghĩa của xét xử phúc thẩm dân sự 1.Khái niệm xét xử phúc thẩm Thủ tục phúc thẩm là một giai đọan tố tụng, là tổng hợp các quan hệ tố tụng phát sinh giữa Tòa án với những người tham gia tố tụng nhằm mục đích kiểm tra tính hợp pháp với tính có căn cứ của các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẫm bị kháng cáo, kháng nghị 3.Ý nghĩa của xét xử phúc thẩm -Nhằm sửa chữa những sai sót của các bản án, quyết định sơ thẩm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. -Tạo khả năng thuận lợi cho tòa án cấp trên kiểm tra chất lượng xét xử của tòa án cấp dưới. Qua đó, chỉ đạo hoạt động của tòa án cấp dưới cho phù hợp với pháp luật, đúc kết kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn sai sót trong công tác xét xử đồng thời bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xét xử II. Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm 1.Chủ thể kháng cáo, kháng nghị Điều 223 BLTT qui định chủ thể kháng cáo là đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện. Họ có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của tòa án sơ thẩm để yêu cầu tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. 2. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị Thời hạn kháng cáo đối với bản án của tòa án cấp sơ thẫm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án thì thời hạn kháng cáo là 7 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Bộ luật tố tụng dân sự cũng qui định trong trường hợp kháng cáo quá hạn thì tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do của việc kháng cáo quá hạn và nếu cần thiết thì xuất trình chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho việc kháng cáo quá hạn. Khi có đương sự kháng cáo quá hạn thì tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo quá hạn cùng với bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và các tài liệu chứng cứ cho tòa án phúc thẩm. Trong thời hạn 10 ngày, tòa án cấp phúc thẩm phải thành lập Hội đồng gồm 3 Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn và phải nêu rõ lý do. Nếu tòa án phúc thẩm chấp nhận kháng cáo quá hạn thì tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục theo qui định và gửi hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm để chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Điều 250 của Bộ luật TTDS qui định chủ thể của việc kháng nghị bản án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của tòa án cấp sơ thẩm là Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Đối với quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của tòa án cấp sơ thẩm thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 7 ngày, của viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định. 3.Hình thức kháng cáo, kháng nghị Bằng văn bản 4.Hậu quả của kháng cáo, kháng nghị Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị là những phần nào của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo kháng nghị thì phần đó chưa được đưa ra thi hành, trừ những trường hợp phải thi hành ngay như phần quyết định về cấp dưỡng, trả tiền công lao động, nhận lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏa của công dân. Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được đưa ra thi hành. III Trình tự phúc thẩm 1.Thụ lý vụ án Do bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay cho nên để đảm bảo chất lượng xét xử tại phiên tòa phúc thẩm thì việc chuẩn bị cho xét xử phúc thẩm chu đáo, đầy đủ là rất cần thiết. Theo qui định của Bộ luật TTDS về chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo, tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm. 2.Chuẩn bị xét xử phúc thẩm Sau khi thụ lý vụ án, Chánh án tòa án cấp phúc thẩm hoặc chánh tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm cũng có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bộ luật tố tụng dân sự quy định, trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, tòa án cấp phúc thẩm có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay ra quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời theo qui định tại chương VIII của Bộ luật TTDS Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong trường hợp Viện kiểm sát đã kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm hoặc đã tham gia phiên tòa sơ thẩm thì Viện kiểm sát phải cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ ccủa viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ lại cho tòa án để tiến hành đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn 2 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây : - Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. - Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. - Đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm Đối với vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì chánh án tòa án phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử nhưng không được quá một tháng. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm, trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 2 tháng. a.Tạm đình chỉ Việc quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm và hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm được thực hiện theo qui định của các điều 189, 190, 191 của Bộ luật tố tụng dân sự. b.Đình chỉ : Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm trong các trường hợp : - Qui định tại điểm a và điểm b khoản 1, điều 192 của Bộ luật TTDS - Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị. - Các trường hợp khác mà pháp luật có qui định. Trong trường hợp tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do người kháng cáo rút tòan bộ kháng cáo hoặc viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tòa án cấp phúc thẩm thẫm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm 3. Phiên tòa phúc thẩm a. Thủ tục bắt đầu phiên tòa Thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo qui định tại các điều 212, 213, 214, 215, 216 của BLTTDS b.Hỏi tại phiên tòa Một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Tiếp theo hỏi nguyên đơn có rút đơn khởi kiện hay không, hỏi người kháng cáo, Kiểm sát viên thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo kháng nghị hay không, hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không Về việc rút đơn khởi kiện, Bộ luật tố tụng qui định cho nguyên đơn có quyền rút đơn khởi kiện tại tòa án cấp phúc thẩm là thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc quyền tự định đọat của đương sự. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong trường hợp trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không. Nếu bị đơn đồng ý để nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và ra quyết định hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tại phiên tòa phúc thẩm thẫm khi các đương sự vẫn giữ kháng cáo hoặc viện kiểm sát vẫn giữ kháng nghị và các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án Trong vụ án mà tất cả các đương sự đều kháng cáo thì thứ tự trình bày như sau: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo của nguyên đơn và nguyên đơn; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo của bị đơn và bị đơn; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trong vụ án mà chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị và căn cứ kháng nghị Trường hợp có kháng cáo lẫn kháng nghị thì các đương sự trình bày trước rồi đến Kiểm sát viên trình bày sau. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và các đương sự khác. Đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo và đề nghị của mình. Thủ tục hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện như tại phiên tòa sơ thẩm, việc hỏi được qui định tại điều 263 bộ luật tố tụng dân sự. c.Tranh luận tại phiên tòa Việc tranh luận tại phiên tòa được thực hiện như tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như qui định tại điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự. Một điểm cần chú ý là chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên tòa phúc thẩm d.Nghị án và tuyên án Nghị án và tuyên án được thực hiện như tại phiên tòa sơ thẫm. 4.Quyền hạn của tòa cấp phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ có quyền xem xét lại phần có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền hạn sau : - Giữ nguyên bản án sơ thẩm - Sửa bản án sơ xử phúc thẩm - Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. - Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án Đối với việc sửa bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu tòa án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong những trường hợp : +Việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng qui định của chương VII Bộ luật tố tụng. +Việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa được thực hiện đầy đủ ở tòa cấp sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm nó đã được bổ sung đầy đủ. Đối với việc hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án trong trường hợp việc chứng minh và thu thập chứng cứ không đúng như qui định tại chương VII của bộ luật này hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà cấp phúc xử phúc thẩm không thể thực hiện việc bổ sung được hoặc thành phần của Hội đồng xét xử không đúng qui định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. Đối với việc hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điều 192 của bộ luật. 5. Thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của tòa án bị kháng cáo, kháng nghị Thủ tục phúc thẩm đối với tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị được qui định tại điều 280 của Bộ luật TTDS. BLTTDS cũng qui định khi phúc thẩm đối với quyết định của tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng phúc thẩm không phải mở phiên tòa, không phải triệu tập đương sự trừ trường hợp phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định. Hội đồng phúc thẩm có các thẩm quyền như sau: + Giữ nguyên quyết định của tòa án cấp sơ thẩm + Sửa quyết định của tòa án cấp sơ thẩm + Hủy quyết định của tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết vụ án BLTTDS qui định Kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm quyết định của tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và sự tham gia này là bắt buộc. Về trình tự tiến hành phúc thẩm quyết định của tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì một thành viên của Hội đồng phúc thẩm trình bày tóm tắt nội dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo( nếu có). Sau đó, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định và quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày ra quyết định. Chương X: THỦ TỤC XÉT LẠI CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT ……3 tiết I.Thủ tục giám đốc thẩm 1.Bản chất GDT Là việc Tòa án cấp trên xét lại bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án b.Ý nghĩa -Sửa chữa sai sót của Tòa án -Bảo vệ quyền lợi của đương sự -Thông qua giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên kịp thời hướng dẫn áp dụng pháp luật cho chính xác 2.Kháng nghị GDT a.Chủ thể kháng nghị b.Căn cứ kháng nghị c.Hình thức kháng nghị d.Thời hạn kháng nghị 3.Thẩm quyền giám đốc thẩm 4.Phiên toà giám đốc thẩm 5.Quyền hạn của hội đồng giám đốc thẩm -Giữ nguyên bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật, bản án, quyết định bị hủy, bị sửa -Hủy bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm, phúc thẩm lại -Hủy và đình chỉ II.Thủ tục tái thẩm 1. Bản chất GDT Là việc Tòa án cấp trên xét lại bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó 2.Kháng nghị tái thẩm a.Chủ thể kháng nghị b.Căn cứ kháng nghị c.Hình thức kháng nghị d.Thời hạn kháng nghị 3.Thẩm quyền tái thẩm 4.Phiên toà tái thẩm 5.Quyền hạn của hội đồng tái thẩm -Giữ nguyên bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật -Hủy bản án, quyết định đã có đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại -Hủy và đình chỉ III. Thủ tục đặc biệt 1. Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó. Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị đó. Trường hợp nhất trí với kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra quyết định giao Chánh án Toà án nhân dân tối cao tổ chức nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét, quyết định. Trường hợp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không nhất trí với kiến nghị, đề nghị thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị quy định tại khoản 3 Điều này phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 2. Thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 310a của Bộ luật này hoặc kể từ ngày có quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định tại khoản 3 Điều 310a của Bộ luật này. Phiên họp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trường hợp xét thấy cần thiết, Toà án nhân dân tối cao có thể mời cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến tham dự phiên họp. Sau khi nghe Chánh án Toà án nhân dân tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan được mời tham dự, nếu có, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra quyết định hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định và tùy từng trường hợp mà quyết định như sau: Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án; Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Toà án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật; Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành. Chương XI: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ ….1,5 tiết I.Khái niệm và đặc điểm 1.Khái niệm 2.Ý nghĩa II.Thủ tục chung 1.Thủ tục sơ thẩm việc dân sự 1.Những quy định chung a.Thẩm quyền của Toà án b.Thủ tục nộp đơn yêu cầu c.Thủ tục giải quyết việc dân sự 2.Thủ tục phúc thẩm việc dân sự 1.Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm 2.Thủ tục phúc thẩm III.Các thủ tục giải quyết việc dân sự cụ thể 1.Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự 2. Thủ tục giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú 3.Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích, một người là đã chếtchết 4.Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài Thảo luận